Bài viết dành cho người học y tham khảo, nếu bạn không hiểu y vui lòng không tự ý sử dụng dược liệu hoặc chỉ sử dụng dưới sự hướng dẫn của thầy thuốc để tránh phản ứng không mong muốn.
Phụ tử là vị thuốc thuần dương thông suốt mười hai kinh mạch
Phụ tử vị đại tân, tính đại nhiệt, khí hùng liệt, có đại độc, tính của nó đi mà không giữ, công năng trợ dương bổ hỏa, tán hàn trừ thấp. Có thể dẫn thuốc bổ khí đi khắp mười hai kinh mạch, để truy phục nguyên dương đã tán thất; dẫn thuốc bổ huyết vào huyết phận, để tư dưỡng chân âm bất túc; dẫn thuốc phát tán khai khiếu lý, để khu trục phong hàn ở biểu; dẫn thuốc ôn ấm đạt hạ tiêu, để khu trừ lãnh thấp ở lý. “Bản thảo chính nghĩa” quyển thứ bảy “Độc thảo loại” viết: “Tính của nó thiện tẩu, cho nên là vị thuốc thuần dương thông hành mười hai kinh mạch yếu trọng, bên ngoài thì đạt bì mao mà trừ biểu hàn, bên trong thì đạt hạ nguyên mà ôn cố lãnh, triệt nội triệt ngoại, phàm tam tiêu kinh lạc, chư tạng chư phủ, quả có chân hàn, không gì không thể trị”. Nhan lão cho rằng phụ tử là bậc trưởng của trăm vị thuốc, công kiêm thông bổ, ôn bổ dương khí, có lợi cho khí huyết phục hồi, tán hàn thông dương, có thể thúc đẩy khí huyết lưu thông, đối với bệnh nghi nan kinh trị không khỏi, thường dùng.
[Kinh nghiệm dùng thuốc]
Phụ tử là vị thuốc thuần dương, công năng ôn dương: Phụ tử vị cay, tính nóng, công năng động mà không tĩnh, thông hành khắp toàn thân kinh lạc tạng phủ, cho nên Nhan lão xưng nó là “vị thuốc thuần dương”, lâm sàng dùng nó để bổ tâm dương, làm ấm tỳ dương, tráng thận dương, dùng cho chứng dương hư lâu ngày, có hiệu quả thấy rõ ngay.
Nhan lão đề cao thuyết “Dương khí giả, nhược thiên dữ nhật, thất kỳ sở, tắc chiết thọ nhi bất chương, cố thiên vận đương dĩ nhật quang minh” trong “Tố vấn · Sinh khí thông thiên luận thiên”, đồng thời tán thưởng luận “Cái nhân đắc thiên địa chi khí dĩ hữu sinh, nhi hữu sinh chi khí tức dương khí dã, vô dương tắc vô sinh hĩ, cố phàm tự sinh nhi trưởng, tự trưởng nhi tráng, vô phi dương khí vị chi chủ, nhi tinh huyết giai kỳ hóa sinh dã. Thị dĩ dương thịnh tắc tinh huyết thịnh, sinh khí thịnh dã; dương suy tắc tinh huyết suy, sinh khí suy dã” trong “Cảnh nhạc toàn thư” quyển ba “Đạo tập · Truyền trung lục”, coi trọng tác dụng của dương khí trong sự phát sinh và phát triển của bệnh tật. Lâm sàng khéo dùng phụ tử ôn dương, xem chi tiết dưới đây.
(1) Ôn dương hoạt huyết: Lấy thuốc ôn dương và thuốc hoạt huyết dùng chung, trị liệu bệnh tim mạch. Tim ở vị trí dương, thể âm mà dùng dương, các dương nhận khí ở ngực. Cho nên phàm người vốn có tâm khí bất túc hoặc tâm dương không chấn động dẫn đến hung dương bắt khai, tâm dương suy yếu, dương khí mất đi sự vận hành, khí huyết vận hành không thông suốt, thì chứng ngực bế tắc tim đau phát tác, thường thấy đau lan ra sau lưng, tinh thần uể oải mệt mỏi, mồ hôi tự ra, lưỡi nhạt chất tím, mạch trầm nhược, thực chất phần lớn thuộc dương hư âm ngưng, dương hư là gốc, âm ngưng là ngọn. Nhan lão trong điều trị lâm sàng bệnh tim mạch, đề cao phân tích bệnh cơ “dương vi âm huyền” của Trương Trọng Cảnh, đặc biệt nhấn mạnh quan điểm “có một phần dương khí, liền có một phần sinh cơ”, cho rằng ôn vận dương khí là nguyên tắc quan trọng để điều trị bệnh tim mạch, đặc biệt đối với một số bệnh tim mạch nguy kịch, càng không thể xem nhẹ tính cần thiết của ôn vận dương khí. Lập pháp dùng thuốc nên lấy ôn dương làm chủ, hoạt huyết làm phụ. Thường dùng bài phụ tử thang để điều trị bệnh mạch vành, phương này lấy phụ tử ôn dương tán hàn, nhân sâm, bạch truật, phục linh cam ôn ích khí, thược dược hòa doanh hoạt huyết, các vị thuốc hợp dùng, cùng có công hiệu ôn kinh tán hàn, ích khí hoạt huyết. Ngực bí tim hồi hộp, thêm đan sâm, cát căn; ngực đau dữ dội, thêm tam thất, huyết kiệt; môi xanh lưỡi tím, thêm nga truật, thủy điệt…
(2) Ôn vị kiện tỳ: Lấy thuốc ôn dương và thuốc kiện tỳ dùng chung, trị liệu viêm dạ dày mãn tính. Tỳ vị cùng ở trung tiêu, tỳ thuộc tạng âm, chủ vận hóa, vị là thổ dương, chủ thu nạp, âm dương phối hợp, thăng giáng đã tốt. Diệp Quế đưa ra “thuyết vị âm”, nhiều thầy thuốc coi trọng vị âm mà xem nhẹ vị dương. Nhưng bệnh biến vô cùng, phủ dương có bệnh dương thương, tạng âm có lo lắng âm hư. Nhan lão lâm sàng rất coi trọng tác dụng của vị dương, cho rằng vị là biển của thủy cốc, hàng ngày lấy việc thu nạp thức ăn tiêu cốc làm chức năng, cho nên phàm ăn uống sinh lạnh, thủy thấp ứ đọng bên trong, phần lớn làm tổn thương vị dương. Lâm sàng phàm thấy thủy cốc tích trệ ở vị phủ, tức đưa không thông dẫn đến nôn mửa, buồn nôn nôn ọe, ợ chua các chứng, phần lớn quy cho vị dương không chấn động, trọc âm ngưng tụ. Pháp đương thêm củi vào đáy nồi, lâm sàng thích dùng phụ tử, tất trừng già, tất bạt, ngô thù du, táo tâm thổ, công đinh hương, bán hạ, phục linh, chỉ xác, hậu phác…
(3) Ôn phế khứ hàn: Lấy thuốc ôn dương và thuốc tuyên giáng phế khí dùng chung, điều trị hen suyễn. Hen suyễn có mới, cũ, hư, thực. Hen suyễn mới thuộc thực, phần lớn do phế; hen suyễn cũ thuộc hư, phần lớn do thận. Lão Nhan cho rằng đây là bệnh trầm trọng, bệnh lâu ngày thuộc thuần hư rất ít, hơn nữa dây dưa lặp đi lặp lại, chính khí tan vỡ, tinh khí nội thương, dễ chiêu cảm tà khí lục dâm xâm nhập, trong lục dâm, lại lấy hàn tà chiếm đến tám chín phần. Hàn phạm tạng yếu, khí mất thăng giáng, đờm trọc nội sinh, hàn đờm keo dính, thì đờm khò khè khí gấp, ngực đầy tắc, không nằm yên được. Cho nên “Thánh tế tổng lục · Phế khí suyễn cấp môn” nói: “Phế khí suyễn cấp là do phế thận khí hư, do hàn thấp chí âm chi khí gây nên”. Tiểu Thanh Long thang đương nhiên là phương hay để trị bệnh hàn suyễn, nhưng Nhan lão cho rằng phương này chưa thể trị cả gốc lẫn ngọn, mà thường dùng bài dương hòa thang gia giảm với lộc giác giao, bào khương, nhục quế, phụ tử ôn phế, ma hoàng, bạch giới tử tuyên phế, thục địa bổ phế, ôn, tuyên, bổ ba phép cùng dùng, công bổ kiêm thi, dùng để trị hen suyễn lặp đi lặp lại thường phát, gốc hư ngọn thực, thường có hiệu quả ngay.
(4) Tân ôn lợi yết: Lấy thuốc ôn dương và thuốc tuyên phế lợi yết dùng chung, điều trị viêm họng mãn tính. Viêm họng mãn tính chủ yếu biểu hiện bằng đau rát, ngứa rát nhẹ ở họng, hoặc như có dị vật cản trở ở họng, khàn tiếng, các thầy thuốc bị giới hạn bởi phương pháp thông thường, phần lớn biện luận và điều trị từ phong táo đờm nhiệt hoặc âm hư hỏa vượng. Nhan lão thì quen lấy khí huyết âm dương làm cương lĩnh để biện chứng trị liệu, cho rằng thận là nhà của âm dương, mạch thận túc thiếu âm tuần hoàn qua họng, giáp gốc lưỡi, nếu thận dương hư ở dưới, âm hàn kết ở trên, hàn ứ ở họng thì thấy họng đỏ sẫm, lúc cảm thấy đầy tức, rêu lưỡi mỏng trắng; hoặc nếu ngoại cảm bệnh nhiệt chữa không đúng cách, dùng quá nhiều thuốc hàn lương tư nhuận, làm hại dương khí, tà xâm nhập thiếu âm, dẫn đến hỏa hư ở dưới, hàn ngưng ở giữa, cách dương lên trên, hỏa không gốc đốt họng, có thể thấy họng đau rát nhẹ, sưng tấy, niêm mạc họng đỏ nhạt, sợ lạnh chân tay lạnh, tinh thần mệt mỏi yếu sức, lưỡi bệu rêu trắng, mạch trầm nhược v.v. Điều trị nên theo nghĩa “thậm giả tòng chi, tòng giả phản chi”, dùng tân ôn. Có thể dùng bài quế phụ địa hoàng thang và bán hạ tán gia giảm làm chủ. Lâm sàng thường thêm đại hoàng phản tá, vì đại hoàng có thể khiến thuốc nhiệt không bị phù dương cách trở, thuận thế dẫn dắt, đánh thẳng vào chỗ bệnh, có công hiệu hỗ trợ lẫn nhau.
(5) Ôn thận lợi thủy: Lấy thuốc ôn dương và thuốc lợi thủy dùng chung, điều trị viêm thận mãn tính. Viêm thận mãn tính là một trong những bệnh thường gặp nhiều bệnh, bệnh trình kéo dài, chứng hậu phức tạp, điều trị khó khăn, phù thũng là triệu chứng thường gặp của nó. Đối với việc điều trị phù thũng, Nhan lão cho rằng nên chú trọng ôn bổ thận dương. Phù thũng vốn do thủy gây nên, “Tố vấn · Âm dương biệt luận thiên” nói: “Tam âm kết, vị chi thủy”, kinh phế tỳ thái âm thủ túc, một bên chủ thông điều thủy đạo, một bên dùng để vận chuyển thủy tinh, vậy thì quyền hành đều do kinh thận túc thiếu âm nắm giữ, đúng như “Cảnh nhạc toàn thư · Thũng trướng” nói: “Phàm chứng phù thũng v.v., gốc ở thận, ngọn ở phế, chế ở tỳ”. Thận chủ khai hợp, thận khí theo dương thì khai, theo âm thì hợp, âm khí quá thịnh, cửa đóng thường xuyên, khí không hóa thủy, cơ chế thông điều vận chuyển cũng bỏ phế, đại thủy lan tràn, quần âm nắm quyền, nước ngập chân dương. Lúc này, khai lỗ chân lông, chuyển tân dịch, thông tam tiêu, phá cố lạnh, không nhờ phép ôn thận, khó bố cục dương hòa. Chân dương chi khí trong thận được ôn mà thăng lên, sự xoay chuyển của tỳ, sự điều tiết của phế đều có thể phục hồi chức năng, cho nên chủ trương ôn thận trị thủy, nên dùng mạnh dùng gấp, thuốc như phụ tử,
quế chi, ba kích thiên, can khương, tiêu mục, tiểu hồi hương… Nhưng nên dùng trúng bệnh thì dừng, phù thũng đại thế đã lui, nên giảm lượng hoặc dừng dùng, sửa sai quá mức không phải là sách hay. Lão Nhan lâm sàng thường dùng bài thuốc tự kê ôn dương trục thủy ẩm: lộc giác phiến 9g, nhục quế 3g, ba kích thiên 9g, phụ tử 4.5g, hoàng kỳ 12g, đỗ trọng 9g, trư linh 9g, thương lục 9g, hắc bạch sửu mỗi thứ 9g, trạch tả 15g, tiêu mục 2.4g, phục linh 15g. Bài thuốc này phối hợp với quế, có thể giữ có thể đi, cái giữ là hạ nguyên được ấm mà thận khí mới sung mãn; cái đi là kinh lạc ứ nước cùng nhau xông phá, đại có công hiệu khôi phục chân hỏa, khai phá thần cơ.
(6) Ôn dương sưu thích: Lấy thuốc ôn dương và thuốc tán hàn thông lạc dùng chung, điều trị bệnh mạch máu ngoại vi. Bệnh mạch máu ngoại vi bao gồm viêm tắc nghẽn mạch máu huyết khối, hiện tượng Raynaud, viêm động mạch lớn, chứng đau đầu chi ban đỏ, giãn tĩnh mạch chi dưới và các bệnh khác, điều trị lâm sàng khá khó khăn. Mặc dù nguyên nhân gây bệnh và thay đổi bệnh lý của chúng có khác nhau, nhưng đều tồn tại tình trạng rối loạn tuần hoàn máu và rối loạn vi tuần hoàn, do đó thuộc phạm trù “huyết ứ” của y học cổ truyền. Lâu nay, Nhan lão luôn tuân theo nguyên tắc “nước chảy không thối” “mạch nên thường thông”, dùng pháp ôn kinh tán hàn để điều trị loại bệnh này. Pháp này phù hợp với các bệnh mạch máu ngoại vi mạn tính do hàn ngưng, như chi thể lạnh tím, đau dữ dội, lưỡi nhạt, mạch tế hoặc khó bắt được.
“Thương hàn luận” dùng bài thông mạch tứ nghịch thang để trị chứng quyết nghịch âm chứng, mạch trầm vi tế muốn tuyệt. Lão Nhan cho rằng bài thuốc này có thể phát dương khí, hóa ngưng thông mạch, đáng để học theo, lâm sàng thường dùng bài dương hòa thang và bài ma hoàng phụ tử tế tân thang gia giảm, dùng các vị ma hoàng, phụ tử, quế chi, tế tân, mao đông thanh, bạch giới tử, đương quy, xuyên khung… Pháp này ôn kinh tán hàn, hồi dương thông mạch, sưu thích ứ trọc, giãn mạch máu, có tác dụng cải thiện tuần hoàn máu chi thể, nếu phối hợp với các pháp bổ khí dưỡng huyết v.v., vận dụng linh hoạt thì hiệu quả càng tốt hơn.
* Thuốc trừ tà quan trọng, phụ tử vị cay tính nóng, giỏi trừ tà âm hàn, phàm hàn tà, thấp tà, đờm ẩm v.v., các thuốc khác điều trị không hiệu quả, Lão Nhan thường thêm vị phụ tử vào phương thuốc, thường có thể đạt hiệu quả “ánh mặt trời rọi sáng, mây mù tự tan”.
Tuỳ chứng phối ngũ
(1) Chứng ngực bế: Phụ tử là vị thuốc đại tân đại nhiệt, chủ yếu vào kinh thủ thiếu âm tâm, công năng đại bổ tâm dương, tính đi mà không giữ, giỏi trừ hàn tà, sơ thông huyết khí, dùng trị chứng ngực bế có diệu dụng một công ba việc, là thuốc quan trọng để điều trị chứng ngực bế. Dùng cho chứng ngực bế tâm thống do tâm dương hư suy, thậm chí đau ngực thấu lưng, trong lòng trống rỗng, hồi hộp mà động, hình hàn chi lạnh, khí ngắn thở gấp, tinh thần mệt mỏi yếu sức, sắc mặt thanh bạch, lưỡi nhạt, hoặc lưỡi nhạt bệu mà non, mạch tế nhược, hoặc kết, hoặc đại, hoặc trì. Ví dụ, dùng bài ma hoàng phụ tử tế tân thang để điều trị bệnh tim phổi mạn tính, thường dùng chung với bài tiểu thanh long thang, bài tam tử dưỡng thân thang, bài linh quế truật cam thang; dùng bài phụ tử thang, bài sâm phụ thang để điều trị bệnh mạch vành, như đau thắt ngực, nhồi máu cơ tim gây ra đau ngực; dùng bài thông mạch tứ nghịch thang để điều trị hội chứng suy nút xoang bệnh lý, và có thể gia thêm thạch xương bồ, uất kim khai uất để thông mạch. Lâm sàng nếu thấy mạch tế mà vi, lưỡi bệu mà nhạt, thuộc dương vi âm huyền, nên dùng bài phụ tử thang v.v. để ôn dương tán hàn; nếu thấy mạch hư mà sác, lưỡi đỏ chất khô, thuộc khí âm lưỡng hư, nên dùng bài thuốc phụ tử phối hợp với bài sinh mạch tán, dùng phụ tử chấn dương, sinh mạch dưỡng âm, cùng nhau thành bậc thầy phục mạch
2) Tâm thủy: Dùng cho trường hợp tâm dương hư lâu ngày, thủy ẩm ngưng tụ ở ngực gây phù mặt, tay chân, ngực bí tức khó chịu, tim hồi hộp, động thì khó thở, lưỡi nhạt, rêu lưỡi mỏng trắng, mạch trầm tế mà yếu. Thường phối hợp với bạch truật, phục linh… như bài Chân vũ thang; và thường phối hợp với xuyên khung, đương quy, hồng hoa, xích thược, trạch lan, ích mẫu thảo… là các vị thuốc hoạt huyết, khiến huyết đi theo thủy hóa.
(3) Trúng phong: Thường dùng cho trường hợp trúng phong thoát chứng bệnh tình nguy kịch, lâm sàng thấy mắt nhắm tay buông, mồ hôi lạnh đầm đìa, đại tiểu tiện không tự chủ, hơi thở rất yếu. Nếu dương khí hư thoát thì dùng bài Sâm phụ thang; nếu âm dương đều thoát thì dùng bài Sâm phụ thang hợp bài Sinh mạch tán; nếu kiêm đờm trọc bít tắc các khiếu thì có thể phối hợp linh dương giác, trúc lịch, nước gừng… để hóa đờm khai khiếu.
(4) Đau đầu: Thường dùng cho trường hợp đau đầu do khí hư và dương hư, thấy đau đầu lâu ngày, lúc đau dữ dội lúc đau nhẹ, tay chân không ấm, gặp gió lạnh thì phát tác hoặc nặng hơn, hoặc kèm chóng mặt, hoặc kèm buồn nôn, hoặc kèm nôn ra nước trong, lưỡi nhạt, rêu lưỡi mỏng trắng, mạch huyền khẩn. Thường dùng cùng với phòng phong, tế tân, phục linh, toàn yết…
(5) Phế trướng: Phụ tử vị cay, cay vào kinh phế, cho nên có thể ôn phế tán hàn, trợ dương cố biểu, phối hợp với ma hoàng, tuyên bổ cùng dùng, công bổ kiêm thi, thì giỏi trị phế trướng ho suyễn. Chứng phế trướng, tà ẩm đầy ứ, che lấp dương khí, khiến dương không bảo vệ bên ngoài, không thể chống tà, hơi cảm lạnh trúng gió, liền có thể dẫn động phục ẩm, kẹp cảm mà phát, chứng thuộc bản hư tiêu thực, Lão Nhan cho rằng đây không phải là thuốc tuyên phế hóa đờm thông thường có thể đảm đương, bài Tam ảo thang, bài Hoa cái tán, bài Tiểu thanh long thang… trong phương ma hoàng công ở tuyên tán, ôn dương lực phần nhiều thiếu, chỉ có thêm vị phụ tử, ôn phù dương khí, mới có thể khắc địch, lâm sàng phàm thấy ho suyễn thường phát, ho đờm loãng trong, lưng lạnh, rêu lưỡi trắng nhớt… là chứng dương hư âm ngưng, lấy bài Tiểu thanh long thang thêm phụ tử dùng, thường có hiệu quả.
(6) Âm hoàng: Phụ tử tính đại nhiệt, không chỉ trừ hàn để ôn ấm tỳ vị, còn có thể táo thấp để trừ thấp tỳ. Phối hợp với thuốc chuyên trị hoàng đản là nhân trần, ôn dương hóa thấp, chuyên trị âm hoàng. Hoàng đản phát bệnh, lấy thấp tà làm chính, cái gọi là “hoàng gia sở đắc, tòng thấp đắc chi” (Kim quỹ yếu lược – Hoàng đản bệnh mạch chứng tịnh trị), thấp tính dính trệ, dây dưa khó trừ, dễ ngăn khí hại dương, cho nên hoàng đản lâu ngày không khỏi, tất nhiên tổn thương dương khí, làm nặng thêm sự đình trệ của thủy thấp, bèn thành biến chứng âm hoàng, thấy da màu như hun khói, lưỡi nhuận mạch trầm, Lão Nhan trị chứng này thường trong thuốc nhân trần thêm một ít phụ tử, chấn phấn tỳ dương, trừ khử hàn thấp.
(7) Sỏi niệu: Phụ tử khí mạnh, giỏi bổ thận dương, ôn khí bàng quang, cùng với thạch vĩ… là các thuốc thanh lợi thông lâm dùng chung, thì có công hiệu ôn dương hành khí, thông lâm bài sỏi. Lão Nhan chỉ ra chứng sỏi lâm, thận hư khí hóa bất lợi là gốc, thấp nhiệt uất kết hạ tiêu là ngọn. Thận chủ thủy, chủ nhị tiện, thận dương thịnh vượng, khí hóa có quyền, sinh hóa có thứ tự, thấp nhiệt không thể uất kết, sỏi không thể hình thành. Nếu thận dương suy nhược, khí hóa yếu sức, thanh trọc bài tiết mất điều hòa, thấp trọc không thể xuống mà lắng đọng thành sỏi. Điều trị nếu chỉ câu nệ thanh nhiệt thông lâm, không những sỏi khó công hạ, mà dùng lâu công lợi, trái lại có hại khí tổn dương, lâm sàng thường dùng phụ tử ôn thận thông dương, lấy bổ thay thông, khiến dương khí đầy đủ, khí hóa thì có thể ra.
4. Phương pháp sử dụng và liều lượng
(1) Độc tính và liều lượng: Liều lượng thông thường là 3-12g, sắc trước nửa giờ; hồi dương cứu nghịch thì nhất định phải dùng sinh phụ tử, có thể dùng đến 15-30g, sắc trước nửa giờ đến 1 giờ. Liều lượng phụ tử lớn nhỏ có liên quan đến nhiều yếu tố, trước tiên là mức độ nặng nhẹ của bệnh và tính chất của bệnh; tiếp theo là thể chất của người bệnh mạnh yếu và ảnh hưởng của khu vực địa lý và thời tiết khí hậu; tiếp theo nữa là phụ tử bào chế đúng hay không và phương pháp sắc có thích hợp hay không, thông thường nên yêu cầu sắc lửa nhỏ trên 30 phút, như vậy tác dụng độc của phụ tử có thể giảm rõ rệt mà không mất tác dụng trị liệu.
(2) Những điều cần chú ý và phối ngũ: Lão Y cho rằng phụ tử là vị thuốc chủ yếu ôn dương cứu nghịch, khi sử dụng vừa phải mạnh dạn, vừa phải phối ngũ thích hợp, chế ngự phần thừa, điều hòa phần thiếu. Phương pháp phối ngũ thường dùng có: ① Dưỡng âm trong dương, phối sinh địa, mạch đông để nhuận táo; ② Cam ôn điều hòa, phối cam thảo để giảm độc; ③ Điều hòa âm dương, phối sinh mạch tán; ④ Trấn tiềm ức nghịch, phối long cốt, mẫu lệ; ⑤ Ôn dương tả hỏa, phối tri mẫu, hoàng bá. Bản thảo nói phụ tử phản bán hạ, lão Y trên lâm sàng thường lấy tính chất ngược nhau của chúng, trị các chứng quyết nghịch, nôn mửa, hen suyễn và các chứng bệnh ngoan cố khác, ôn dương mà hóa ẩm, giáng nghịch mà tán kết, phần lớn có hiệu quả, mà không có phản ứng bất lợi.
Thọ Khang Đường chuyên sỉ và lẻ thuốc bắc chính phẩm, thuốc bắc loại một tại Sài Gòn.
Tiệm thuốc bắc Quận 2 số 94 Vũ Tông Phan, Phường An Phú, Quận 2