Sinh Địa Hoàng = Can Địa Hoàng

I/ Tên gọi:

Thuốc Bắc Loại 1 - Hoài sinh địa
Thọ Khang Đường chuyên sỉ và lẻ thuốc bắc chính phẩm, thuốc bắc loại 1 ở Sài Gòn. Quý khách hàng gần xa có nhu cầu mua thuốc bắc loại 1 xin liên hệ Thọ Khang Đường

Địa: thứ củ chắc nặng tay, khi rửa chìm xuống đáy.
Hoàng: khi vừa đào lên như khoai lang, thái ra chảy dịch vàng. Để khô, lâu thì sắc vàng giảm hoặc mất, chuyển đen/tím.
Trước đời Minh, không có thục địa, thầy thuốc lâm sàng dùng Địa Hoàng có 2 loại.
1 loại là dùng tươi : Sinh Địa hoàng.
1 loại phơi khô : Can Địa Hoàng.

Giống như phía trước học có vị Sinh khương, Sinh = Tươi (đối với Can mà nói).

Đời Hán đường Tống Kim Nguyên, các sách viết: Địa hoàng = Địa Hoàng Tươi. Sau này xuất hiện Thục Địa, lúc nãy, nghĩa từ Sinh đối với Thục mà nói, cho nên Sinh Địa chính là Can Địa Hoàng. Còn ai muốn kê Sinh Địa thực sự thì phải viết: Địa Hoàng Tươi. Đọc Y Tịch cổ nên biết điều này.

II/ Công Hiệu:

Thanh nhiệt lương huyết: Chủ trị có 3 loại bệnh chứng.
Dinh phận nhiệt chứng
Huyết phận nhiệt chứng
Nội khoa tạp bệnh , huyết nhiệt vong hành.

Ứng dụng trị bệnh ôn nhiệt nhiệt nhập dinh huyết (gộp).

Ở giai đoạn dinh phận : phối thuốc thanh nhiệt tả hoả.
VD: thanh dinh thang: Có địa hoàng ( thanh nhiệt lương huyết dưỡng âm sinh tân) + Kim ngân hoa/ liên kiều/ hoàng liên/ Trúc diệp .

Đến huyết phận, xuất huyết biểu hiện rõ, lại có ứ huyết, lúc này vai trò của địa hoàng không chỉ đơn thuần thanh nhiệt lương huyết + dưỡng âm, mà còn chỉ huyết.

Chỉ huyết:
Thường thì Sinh Địa có công hiệu chỉ huyết, nhưng hay viết dưới dạng “lương huyết, chỉ huyết”. Thực tế Sinh Địa là 1 thuốc chỉ huyết trực tiếp thường dùng trên lâm sàng. Không những bệnh ôn nhiệt huyết phận chứng hay dùng, nội khoa tạp bệnh xuất huyết cũng hay dùng. Sinh Địa không có tác dụng giải độc, vì thế bất kể ở dinh phận hay huyết phận, đều cần dùng thuốc thanh nhiệt giải độc. Nhưng Sinh Địa không có tác dụng giải độc, ý nghĩa dùng nó khi ở giai đoạn huyết phận, ngoài để lương huyết và dưỡng âm, lại có 1 tác dụng chỉ huyết. Vì ở giai đoạn Dinh Phận, xuất huyết không rõ ràng, không nhất thiết cần dùng công hiệu chỉ huyết của nó.
Bản thân là 1 thuốc lương huyết, chỉ huyết, nó chủ trị huyết nhiệt vong hành, bất kể thổ huyết, nục huyết, niệu huyết, băng lậu, đều sử dụng được.
Thổ huyết đến từ Vị : (hoặc đường tiêu hoá trên).
Nục huyết : nghĩa hẹp: chảy máu mũi, máu cam. Nghĩa rộng. Phạn chỉ nhiều loại xuất huyết: VD: cơ nục, xị nục, ở đây chỉ nghĩa hẹp.
Niệu huyết -> tiểu tiện có huyết: nếu tiểu buốt, rắt -> huyết lâm. Nếu niệu đạo không đau không khó chịu gì -> niệu huyết.
Băng lậu -> xuất huyết không nằm trong kinh kỳ : xuất huyết hung hãn -> Băng. Xuất huyết không nhiều, bệnh thế hoà hoãn hơn – > lậu.

Những chứng trên không ít đều thuộc huyết nhiệt vong hành. Lúc này công hiệu chỉ huyết và thanh nhiệt lương huyết của Địa Hoàng phát huy mỹ mãn.

Dưỡng âm:

Chủ trị: âm hư chứng. Trên lâm sàng, ngũ tạng lục phủ âm hư chứng đều dùng nó được.

VD:
Sau này học Địa Hoàng Hoàn -> Dùng Địa Hoàng trị thận âm hư
Nhất quán tiễn trị can âm hư
Thiên vương bổ tâm đang : Tâm âm hư, tâm quý mất ngủ.
Bách hợp cố kim thang : phế âm hư khái thấu.
Vị âm hư, miệng khát. / Trung đạo tân dịch hư tổn sinh tiện táo kết : Ích vị thang/ tăng dịch thang -> củng có Địa Hoàng.

Có nhiều sách nói nó dưỡng âm sinh tân? Vì trong số các chứng âm hư mà Địa Hoàng trị, sinh địa hay dùng nhất cho vị âm hư, bệnh ôn nhiệt hao tổn vị âm, xuất hiện tân thương, miệng khát. Có bài thuốc nổi tiếng ích vị thang. Vì thế dưỡng âm sinh tân là cách nói nhấn mạnh cái trong điểm, cái ưu thế tốt nhất. Nếu chỉ nói dưỡng âm đại diện cho tính phổ biến. Vì thế 2 cách nói đều có ý tứ riêng. Chúng ta khi học nên biết. Không nên thấy sách nói dưỡng âm sinh tân mà lại coi rằng Sinh Địa dùng được cho các chứng âm hư của tạng phủ khác. Như thế mắc bệnh cục bộ hoá.

Ngoài ra, Tê Giác/ Sừng Trâu có vị mặn, Sinh Địa có vị ngọt vì nó dưỡng âm.

Đều tác dụng ở huyết phận và quy kinh tâm. Nhưng Tê Giác còn quy vị kinh ở đây cũng là 1 loại quan điểm của học thuyết học phái ôn bệnh. Họ cho rằng “Ban” là “Dương minh nhiệt độc”, đối với 1 số thuốc lương huyết tiêu ban, họ cho rằng nó quy kinh dương minh vị, sinh địa còn quy kinh thận, vì nó dưỡng âm gốc gác của âm nằm ở thận. Còn nếu nói quy cả kinh vị, phế thì không có gì sai cả.

Bổ sung: Sinh Địa Hoàng phẩm chủng nhiều, có tính địa vực rất rõ địa đạo tài dược là ở Hà Nam (Hoài Sinh Địa, Hoài Địa hoàng) – > Hoài Khánh.

Nếu bạn đang cần mua thuốc bắc loại 1 ở Sài Gòn, xin vui lòng liên hệ tiệm thuốc bắc Thọ Khang Đường.

Tiệm thuốc bắc Thọ Khang Đường ở số 94 Vũ Tông Phan, Phường An Phú, Quận 2. Chúng tôi có ship hàng đi toàn quốc. Nếu các bạn có câu hỏi về thuốc hoặc về bệnh, vui lòng nhắn facebook thọ Khang Đường:

https://www.facebook.com/thokhangyquan

Website : https://thokhangduong.com/

Thọ Khang Đường chuyên điều trị mất ngủ và các bệnh về gan, viêm gan, gan nhiễm mỡ, men gan cao…

Similar Posts

17 Comments

Comments are closed.