Hà thủ ô bổ âm mà không hàn không trệ, ôn dương mà không táo không nhiệt

Hà thủ ô bổ âm mà không hàn không trệ, ôn dương mà không táo không nhiệt

Hà thủ ô (何首乌) vị ngọt đắng mà sáp, tính ấm, vào kinh Can, Thận, công năng giải độc tiêu ung, nhuận tràng thông tiện. “Cảnh Nhạc toàn thư” quyển bốn mươi tám “Mạn thảo bộ” viết về hà thủ ô: “Vị ngọt sáp hơi đắng, âm trung có dương, tính ấm. Vị ngọt của nó có thể bổ, sáp có thể cố, ấm có thể dưỡng dương. Tuy nói là thuốc của can thận, nhưng loại trắng vào khí phận, loại đỏ vào huyết phận, phàm nơi nào có khí huyết, thì năm tạng âm nào mà không đến? Do đó có thể dưỡng huyết dưỡng thần trợ khí, tráng gân cốt, cường tinh tủy, đen râu tóc, cũng trị phụ nữ đới trọc mất huyết, các chứng hư sau sinh, v.v.” Thầy Nhan thích dùng hà thủ ô điều trị các bệnh tim mạch, mạch máu não và các bệnh hư tổn, đa phần có hiệu nghiệm.

[Kinh nghiệm dùng thuốc]

  1. Bổ ích can thận: Hà thủ ô dùng sống tính nhuận, công năng nhuận tràng thông tiện, qua bào chế với đậu đen, tính ấm vị ngọt, là vị thuốc quan trọng để tư bổ can thận, bổ âm mà không hàn không trệ, ôn dương mà không táo không nhiệt. Thầy Nhan gọi nó là vị thuốc tốt để dưỡng lão điều bổ, phàm các chứng can thận bất túc, âm hư phong động, âm hư huyết táo đều thích hợp.
  2. Dưỡng huyết trừ phong: Chế thủ ô có thể vào kinh Can, có công hiệu dưỡng huyết trừ phong, phương thuốc cổ trị ghẻ lở da là Đương quy ẩm tử, chính là dùng thủ ô hợp với Tứ vật thang gia kinh giới, phòng phong, v.v. là các thuốc trừ phong, công năng dưỡng huyết trừ phong. Thầy Nhan cho rằng can huyết bất túc dễ sinh nội phong, trên lâm sàng đối với các chứng ngứa do chàm mạn tính, da khô ở người già, v.v., dùng chế thủ ô dưỡng huyết trừ phong, có thể có hiệu quả.
  3. Ví dụ phối hợp thuốc theo chứng (1) Đầu váng mắt hoa: Thầy Nhan đối với đầu váng mắt hoa, đau lưng ù tai, nhìn vật mờ, hai chân mỏi mềm do can thận tinh huyết hao tổn, thường dùng chế thủ ô phối với nhân sâm, đương quy, câu kỷ tử, thỏ ty tử, v.v.; thận thủy hao tổn ở dưới, mộc mất tư dưỡng dẫn đến hư dương thượng nhiễu, pháp trị nên bổ âm của can thận, thì phối với quy giáp, miết giáp, long cốt, mẫu lệ, bạch thược, câu kỷ tử, cúc hoa, ngưu tất; nếu do mất máu quá nhiều, hoặc lao tâm lao lực, dinh âm ngầm hao tổn, can mất nuôi dưỡng, mà đầu mắt chóng mặt, thì nên dưỡng huyết nhu can, bổ nó, nhu nó, dùng chế thủ ô cùng với sinh địa, bạch thược, câu kỷ tử, cúc hoa, hắc chi ma, nhị chí hoàn, v.v. (2) Hồi hộp mất ngủ: Hồi hộp mất ngủ do huyết hư, sắc mặt vàng vọt, mệt mỏi, yếu sức, lưỡi nhạt mạch nhược, thầy Nhan quen dùng chế thủ ô phối với thục địa hoàng, đương quy, toan táo nhân, bá tử nhân, v.v., có hiệu quả bổ huyết ninh thần; dùng cho mất ngủ do tâm can huyết hư, hoặc dễ tỉnh sớm, mộng mị lung tung, thậm chí nói mê, v.v., thường dùng chế thủ ô cùng với dạ giao đằng, và phối với đương quy, long nhãn nhục, v.v. (3) Chứng kinh giật: Can chủ gân, bệnh kinh giật đa phần do can mất âm huyết nuôi dưỡng, gân mạch co rút. Kinh giật do âm huyết hao tổn, thầy Nhan thường dùng chế thủ ô phối với đương quy, sinh thục địa hoàng, bạch thược, v.v. để tư âm nhu can; nếu do sau khi mất máu mà bị kinh giật, thì phối với long nhãn nhục, hoàng tinh, nhục thung dung, v.v. để dưỡng huyết nhu cân. (4) Chứng điên: Chứng điên đa phần do đàm khí giao trở, nhưng thầy Nhan cho rằng can uất lâu ngày, can huyết hư suy, cũng có thể dẫn đến chứng điên. Triệu chứng thấy mệt mỏi, yếu sức, đầu váng, hơi thở ngắn, đa phần dùng sài hồ, xuyên khung, đương quy, bạch truật, phục linh, câu đằng, nữ trinh tử, hà thủ ô, hổ trượng, phật thủ, v.v. để dưỡng can sơ can; khí huyết hao tổn bất túc, thì dùng nhân sâm, phục linh, thạch xương bồ, viễn chí, hà thủ ô, đương quy, bạch truật, bạch thược để khí huyết song bổ. (5) Táo bón: Người già thường bị táo bón do tân dịch hao tổn, thầy Nhan trị chứng này quen dùng hà thủ ô phối với ma tử nhân, huyền sâm để thanh nhiệt nhuận tràng thông tiện. (6) Bệnh loa lịch: Bệnh loa lịch lâu ngày, can thận âm hư, đàm nhiệt nội sinh, thầy Nhan quen dùng hà thủ ô, hạ khô thảo, kim ngân hoa, sài hồ, bối mẫu, qua lâu nhân, đương quy thân, lậu lô, ngưu bàng tử, trần bì, tạo giác tử, kinh giới, liên kiều, thổ phục linh, v.v. để điều trị, hiệu quả khá tốt.
  4. Cách dùng và liều lượng (1) Lưu ý khi sử dụng: Người đi ngoài lỏng nên thận trọng. (2) Liều lượng: Sắc nước uống, 9~15g.

[Ví dụ bệnh án]

Bệnh nhân Từ, nữ, 64 tuổi. Nửa năm trước bị xuất huyết não, sau khi cấp cứu tỉnh lại, còn di chứng chi phải không dùng được, tâm phiền dễ cáu, lợi sưng đau, đại tiện táo bón, cứ bốn năm ngày mới đi một lần, mặt đỏ bừng, huyết áp 20/12kPa (150/90mmHg). Chứng thuộc khí âm lưỡng hư, ứ huyết trệ ở mạch lạc, pháp trị nên ích khí dưỡng âm, hoạt huyết thông lạc.

 Toa thuốc: Ô nguyên sâm 15g, sinh đại hoàng 9g, hoàng kỳ 30g, địa long 6g, hồng hoa 9g, đào nhân 9g, xích thược 9g, hy thiêm thảo 15g, đương quy 9g, mạch đông 9g, sinh địa 15g, thân cân thảo 30g.

 Tái khám lần hai: Sau khi điều trị một tháng, đại tiện thông suốt, tinh thần ngày càng tốt, chân tay có người dìu đã có thể hoạt động, thỉnh thoảng chơi mạt chược để điều tiết cảm xúc, lưỡi đỏ rêu mỏng, mạch trì sáp, khí âm có cơ hội phục hồi, ứ huyết có dấu hiệu tan đi. Dùng toa trên thêm mộc qua 9g, đại táo 6 quả. 

Tái khám lần ba: Tay chân phải ngày càng linh hoạt, chỉ có tâm phiền từng cơn không tự kiềm chế được, ngực tức đờm nhiều, nguyên do là đại tiện lại thấy táo bón, lưỡi đỏ rêu mỏng, mạch tiểu huyền. Củi dưới đáy nồi, ngọn lửa khó tắt. 

Toa thuốc: Hà thủ ô 15g, đương quy 9g, bạch thược 9g, huyền sâm 9g, đại hoàng 9g, hổ trượng 15g, quyết minh tử 30g, đan bì 9g, xích thược 9g, sinh địa 15g, đào nhân 9g, chỉ mê phục linh hoàn 6g (nuốt). 

Tái khám lần bốn: Đại tiện đã thông, đàm hỏa của can bước đầu đã bình, thỉnh thoảng có bồn chồn, tổng thể là do khí hỏa tương nhiễu, huyết áp cũng có biến động, lưỡi đỏ rêu trắng nhớt, mạch tiểu huyền. Vẫn nên phòng cháy chữa cháy từ xa.

 Toa thuốc: Hà thủ ô 15g, sinh thạch quyết minh (sắc trước) 30g, sinh tử uyển 10g, huyền sâm 15g, sinh đại hoàng 9g, đào nhân 9g, hồng hoa 9g, xích thược 9g, hy thiêm thảo 15g, thân cân thảo 15g, đương quy 9g, tri mẫu, hoàng bá sao nước muối (mỗi vị) 9g. Thông qua các pháp dục âm, thông phủ, hoạt huyết, hóa ứ, bình can, tức phong, nhu cân, hoạt động của chi thể cơ bản đã phục hồi. Dặn dò ăn uống thanh đạm, thanh tâm làm việc, ít phiền não, nhiều vui vẻ. 

Lời bàn: Bệnh lớn như vậy đã thay đổi nhiều phương pháp điều trị, nhưng tổng thể không ngoài bốn yếu tố bệnh cơ là phong, hỏa, đàm, ứ. Nguyên nhân hình thành bệnh này là do phong hỏa kích động, huyết theo khí nghịch, vào não xuất huyết, sau khi xuất huyết bị liệt nửa người, ứ trệ ở mạch lạc. Mà đàm sinh ra là do hỏa luyện tân dịch. Huyết áp biến động không ngừng thì nên bình can tức phong; đại tiện không thông thì nên thanh phủ tả hỏa và nhuận tràng sinh tân cùng dùng; lạc đạo bất lợi thì nên hoạt huyết tuyên tý; liệt không dùng được thì nên hóa ứ nhu cân. Không thể cứng nhắc giữ một phương pháp để ứng phó với nhiều biến đổi. Ca này trị từ hóa ứ thông lạc, hoạt huyết nhu kinh, điều khí tiềm dương, tư âm tăng tân lập pháp, có thể làm gương cho lâm sàng. (Lưu Ái Hoa)

Thọ Khang Đường chuyên sỉ và lẻ thuốc bắc chính phẩmthuốc bắc loại một tại Sài Gòn.

Tiệm thuốc bắc  Phường Bình Trưng số 94 Vũ Tông Phan, Phường Bình Trưng, TP Hồ Chí Minh 

https://www.facebook.com/thokhangyquan

https://www.youtube.com/@thokhangduong

Similar Posts