Thập toàn đại bổ thang

Công dụng và chủ trị của Thập Toàn Đại Bổ Thang. Bài viết mang giá trị tham khảo cho người học y. Nếu bạn không hiểu y vui lòng không tự ý sử dụng và nên được sự tư vấn của thầy thuốc hoặc chỉ định.

Thập Toàn Đại Bổ Thang (Thập Toàn Tán)

(Nguồn: 《Truyền Tín Thích Dụng Phương》 quyển 2)

【Tên khác Thập Bổ Thang (《Dị Giản Phương》), Thập Toàn Ẩm (《Thái Bình Huệ Dân Hòa Tễ Cục Phương》 quyển 5), Đại Bổ Thập Toàn Tán (《Y Lũy Nguyên Nhung》), Vu Kim Tán (《Đan Khê Tâm Pháp Phụ Dư》 quyển 21), Thập Toàn Đại Bổ Tán (《Chứng Trị Chuẩn Thằng • Loại Phương》 quyển 1), Gia Vị Bát Trân Thang (《La Thị Hội Ước Y Kính》 quyển 14).

【Thành phần Nhân sâm (bỏ đầu) (6g), Bạch truật, Bạch thược dược, Bạch phục linh (mỗi vị 9g), Hoàng kỳ (12g), Xuyên khung (6g), Can thục địa hoàng (12g), Đương quy (bỏ đầu) (9g), Quế (bỏ vỏ), Cam thảo (sao) (mỗi vị 3g). (Nguyên bản các vị liều lượng bằng nhau).

【Cách dùng Các vị trên thái nhỏ. Mỗi lần dùng 3 tiền (9g), gia thêm 3 lát Sinh khương, 2 quả Đại táo (bẻ đôi), dùng 1 chén rưỡi nước, sắc còn 8 phân, bỏ bã, uống ấm, không kể thời gian.

【Công dụng Ôn bổ khí huyết.

【Chủ trị Chứng khí huyết lưỡng hư. Sắc mặt vàng úa, mệt mỏi ăn ít, đầu váng mắt hoa, thần sắc mệt mỏi, hơi thở ngắn, tim đập nhanh hồi hộp, tự ra mồ hôi, đạo hãn (ra mồ hôi trộm), tứ chi không ấm, lưỡi nhạt, mạch tế nhược, cũng như phụ nữ bị băng lậu, kinh nguyệt không đều, mụn nhọt không liền miệng…

【Phân tích bệnh cơ Khí chủ về sự ôn ấm, huyết chủ về sự nhu nhuận. Khí hư làm tứ chi bách hài không được ôn dưỡng, thì sẽ thấy mệt mỏi, hơi thở ngắn, tứ chi không ấm, tự ra mồ hôi, thần sắc mệt mỏi. Huyết hư làm tạng phủ kinh lạc không được nuôi dưỡng, thì sẽ thấy sắc mặt vàng úa, đầu váng mắt hoa, tim đập nhanh hồi hộp. Khí huyết của Xung Nhâm không đủ, hoặc huyết mất sự thống nhiếp mà thành băng trung lậu hạ, hoặc biển huyết không được đầy đủ mà thành kinh ít, bế kinh. Cơ nhục gân xương không được nuôi dưỡng, thì mụn nhọt sau khi vỡ lâu ngày không thu miệng.

【Ý nghĩa phối ngũ Các chứng thấy ở trên đều do khí huyết lưỡng hư gây ra, do đó phép trị nên là ích khí dưỡng huyết. Bài thuốc này là sự kết hợp của Tứ Quân Tử Thang và Tứ Vật Thang, gia thêm Hoàng kỳ, Nhục quế. Tứ Quân Tử Thang và Tứ Vật Thang lần lượt là các bài thuốc chủ yếu để bổ khí và bổ huyết, hai bài phối hợp, cùng tạo nên công năng bổ cả khí và huyết.

  • Hoàng kỳ vị ngọt tính ấm, là thuốc chủ yếu để bổ khí. 《Linh Khu • Dinh Vệ Sinh Hội》 nói: “Người nhận khí từ cốc, cốc vào Vị, để truyền đến Phế, ngũ tạng lục phủ đều nhờ đó mà nhận khí”, tức là thanh khí của tự nhiên mà Phế hít vào và tinh khí của thủy cốc mà Tỳ hấp thu hợp lại thành khí hậu thiên. Do Hoàng kỳ quy kinh Tỳ Phế, đại bổ khí hậu thiên, lại kiêm cả các tác dụng thăng dương, cố biểu, thác sang (đẩy mủ ra), nên 《Bản Thảo Cầu Chân》 quyển 5 nói nó là “vị thuốc đứng đầu trong các thuốc bổ khí, cho nên có tên là Hoàng Lão 黄耆 ” (nghĩa là bề trên, trưởng lão),… tính thuần dương, mà âm khí rất ít”. Phối hợp với Tứ Quân Tử, thì sức bổ khí của bài thuốc này càng thêm rõ rệt.
  • Nhục quế vị cay ngọt tính đại nhiệt, bổ hỏa trợ dương, ôn thông huyết mạch, dùng chung với các vị thuốc ích khí dưỡng huyết, có thể ôn thông âm khí, cổ vũ khí huyết sinh trưởng, từ đó tăng cường công năng bổ ích hư tổn của bài thuốc. Đúng như Trương Bỉnh Thành nói: “Các vị thuốc được sức ấm dưỡng, thì tính bổ càng đủ, hiệu quả thấy càng nhiều, không chỉ dương hư có thể ôn, mà người âm hư cũng có thể ôn, vì không có dương thì âm không thể sinh ra”. Các vị thuốc phối hợp, trong bổ khí có sức thăng dương, trong dưỡng huyết có năng lực ôn thông, cùng tạo nên hiệu quả đại bổ khí huyết.

Đặc điểm phối ngũ của bài thuốc này: trong các thuốc ích khí dưỡng huyết phối hợp với vị cay nóng là Nhục quế, ngụ ý ôn dương trong việc bổ dưỡng, để đạt được công năng dương sinh âm trưởng.

Bài thuốc này do mười vị thuốc tạo thành, có công năng đại bổ khí huyết, do đó được đặt tên là “Thập Toàn Đại Bổ”.

【So sánh các phương thuốc tương tự Bài thuốc này và Bát Trân Thang đều là sự kết hợp của Tứ Quân Tử Thang và Tứ Vật Thang, nhưng bài này lại có thêm Hoàng kỳ, Nhục quế. Do Hoàng kỳ giỏi bổ khí hậu thiên, Nhục quế có thể cổ vũ khí huyết sinh trưởng, nên sức bổ ích khí huyết tốt hơn Bát Trân Thang. Hơn nữa, Hoàng kỳ ngọt ấm thuần dương, Nhục quế cay nồng đại nhiệt, do đó bài thuốc này thiên về ôn bổ khí huyết. Bát Trân Thang là bài thuốc cơ bản để trị chứng khí huyết lưỡng hư, còn bài thuốc này là bài thuốc đại diện để điều trị chứng khí huyết lưỡng hư nặng, đặc biệt thích hợp cho những người có kèm các dấu hiệu hư hàn như sợ lạnh, tứ chi không ấm.

【Ứng dụng lâm sàng

  1. Yếu điểm biện chứng trị liệu: Đây là bài thuốc đại diện cho việc đại bổ khí huyết. Khi ứng dụng lâm sàng nên lấy các triệu chứng thần sắc mệt mỏi, hơi thở ngắn, đầu váng mắt hoa, tứ chi không ấm, lưỡi nhạt, mạch tế nhược làm yếu điểm sử dụng.
  2. Phép gia giảm: Tim đập nhanh hồi hộp, gia Ngũ vị tử, Toan táo nhân… để dưỡng tâm an thần; tự ra mồ hôi không dứt, gia Long cốt nung, Mẫu lệ nung… để liễm hãn cố biểu.
  3. Ứng dụng hiện đại: Bài thuốc này hiện đại thường được dùng để điều trị các chứng khí huyết đại hư trong các bệnh như thiếu máu, chứng nuy (teo cơ, bại liệt), suy nhược thần kinh, nổi mề đay mạn tính, kinh nguyệt không đều ở phụ nữ, mụn nhọt sau khi vỡ lâu ngày không lành miệng… cũng như sau phẫu thuật, các bệnh tiêu hao mạn tính như ung thư có các triệu chứng nêu trên.

【Nguồn gốc và phát triển Bài thuốc này nguyên tên là “Thập Toàn Tán”, xuất phát từ sách 《Truyền Tín Thích Dụng Phương》 quyển 2, dùng để “bổ các chứng hư bất túc, dưỡng vinh vệ tam tiêu, ngũ tạng lục phủ”. Truy tìm nguồn gốc, nó là sự kết hợp của Tứ Quân Tử Thang và Tứ Vật Thang gia thêm Hoàng kỳ, Nhục quế. Nếu truy tìm xa hơn, từ sớm trong sách 《Lưu Quyên Tử Quỷ Di Phương》 thời Nam triều đã có ghi chép về việc phối hợp thuốc ích khí dưỡng huyết với Hoàng kỳ, Nhục quế để điều trị chứng hậu khí huyết hư tổn. Trong đó, bài Nội Bổ Hoàng Kỳ Thang so với bài thuốc này chỉ thiếu Bạch truật mà có thêm Viễn chí, Mạch đông, thành phần cực kỳ tương tự. Còn bài “Thự Dữ Hoàn” trong sách 《Kim Quỹ Yếu Lược》 của Trương Trọng Cảnh ra đời sớm hơn nữa, cũng đã bao gồm phần lớn các vị thuốc của bài này (chỉ không có Hoàng kỳ). Sách 《Thái Bình Huệ Dân Hòa Tễ Cục Phương》 khi ghi lại bài thuốc này đã đổi tên thành “Thập Toàn Đại Bổ Thang”, dùng để trị “nam giới, phụ nữ các chứng hư bất túc, ngũ lao thất thương, không ăn uống được; bệnh lâu ngày hư tổn, lúc phát triều nhiệt, khí công lên xương sống, co cứng đau nhức, đêm mộng di tinh, sắc mặt vàng úa, chân gối không có sức, tất cả các bệnh sau khi khỏi khí không bằng cũ, lo buồn suy nghĩ làm tổn thương khí huyết, ho suyễn đầy tức, tỳ thận khí yếu, ngũ tâm phiền muộn”. Từ đó xác định vị thế của bài thuốc này là bài thuốc chính để đại bổ khí huyết. Sau này, các nhà y học các đời đã không ngừng phát triển ứng dụng lâm sàng của bài thuốc này. Ví dụ, 《Ngoại Khoa Phát Huy》 quyển 2 dựa vào công năng song bổ khí huyết của bài này, đã dùng nó để điều trị chứng mụn nhọt khí huyết lưỡng hư, lâu ngày không thành mủ, hoặc có mủ không vỡ, sau khi vỡ không liền miệng. 《Tế Âm Cương Mục》 quyển 8 lại dùng bài thuốc này để điều trị các bệnh trước và sau sinh ở phụ nữ. 《Tạp Bệnh Nguyên Lưu Tê Chúc》 quyển 2 và quyển 9 ghi dùng để trị ban sởi, các chứng quyết, các chứng kinh phong…, dần dần làm cho phạm vi ứng dụng của bài thuốc này mở rộng ra nhiều bệnh thuộc các khoa nội, ngoại, phụ, nhi có chứng hậu khí huyết lưỡng hư. Bài thuốc này nguyên là dạng thuốc tán để sắc, đời sau có một số nhà y học đã bào chế thành dạng viên hoặc cao, lần lượt có tên là “Thập Toàn Đại Bổ Hoàn” (xem trong 《Ma Chẩn Toàn Thư》) và “Thập Toàn Đại Bổ Cao” (xem trong 《Trung Dược Thành Phương Phối Bản》). Hiện đại lại bào chế thành dung dịch uống và các dạng khác, làm cho việc sử dụng lâu dài tiện lợi hơn.

【Giải thích những điểm khó Về nguồn gốc thành phần bài thuốc: Bài thuốc này từ trước đến nay được cho là do Bát Trân Thang gia thêm Hoàng kỳ, Nhục quế mà thành. Như Trương Bỉnh Thành nói: “Bát Trân có công năng bổ cả khí và huyết, điều đó không cần bàn cãi. Lại thêm Hoàng kỳ để trợ chính khí mà ích vệ, Nhục quế để ôn huyết mạch mà hòa dinh.” Xét Bát Trân Thang xuất hiện lần đầu trong sách 《Thụy Trúc Đường Kinh Nghiệm Phương》 của Sa Đồ Mục Tô đời Nguyên (xuất bản năm 1326), trong khi Thập Toàn Đại Bổ Thang thì từ sớm trong sách 《Truyền Tín Thích Dụng Phương》 của Ngô Ngạn Sảng đời Nam Tống (xuất bản năm 1180) đã có ghi chép. Do đó, Thập Toàn Đại Bổ Thang ra đời ít nhất sớm hơn Bát Trân Thang hơn 140 năm, vì vậy thuyết bài thuốc này có nguồn gốc từ Bát Trân Thang rõ ràng là không thỏa đáng. Như đã nêu ở trên, từ sớm trong sách 《Lưu Quyên Tử Quỷ Di Phương》 (xuất bản năm 499) đã ghi lại bài Nội Bổ Hoàng Kỳ Thang có thành phần thuốc rất tương tự với Thập Toàn Đại Bổ Thang, đặc biệt là pháp phối hợp thuốc ích khí dưỡng huyết với Hoàng kỳ, Nhục quế giống hệt nhau. Do 《Lưu Quyên Tử Quỷ Di Phương》 là một bộ sách thuốc có ảnh hưởng, nên có thể suy đoán rằng sự lập phương phối ngũ của bài thuốc này rất có thể đã thoát thai từ Nội Bổ Hoàng Kỳ Thang.

【Tuyển chọn các bài luận về phương thuốc

  1. Vương Hảo Cổ: “Quế, Thược dược, Cam thảo, là Tiểu Kiến Trung Thang. Hoàng kỳ cùng ba vị này, tức là Hoàng Kỳ Kiến Trung Thang. Nhân sâm, Phục linh, Bạch truật, Cam thảo, là Tứ Quân Tử Thang. Xuyên khung, Thược dược, Đương quy, Thục địa hoàng, là Tứ Vật Thang. Vì khí huyết đều suy, âm dương cùng yếu, trời được số thành của đất, nên đặt tên là Thập Toàn Tán.” (《Y Lũy Nguyên Nhung》)
  2. Ngô Côn: “Cơ nhục teo tóp do âm hỏa thiêu đốt lâu ngày, khó trị, nên dùng Lục Vị Địa Hoàng Hoàn. Nếu do ăn uống lao lực làm tổn thương Tỳ mà dẫn đến teo tóp cơ nhục, nên đại bổ khí huyết để làm đầy nó. 《Kinh》 nói: Khí chủ ôn ấm, huyết chủ nhu nhuận. Cho nên dùng các vị ngọt ấm như Nhân sâm, Bạch truật, Hoàng kỳ, Phục linh, Cam thảo để bổ khí, khí thịnh thì có thể làm đầy đặn cơ nhục. Dùng các vị có vị dày như Đương quy, Xuyên khung, Thược dược, Địa hoàng, Nhục quế để bổ huyết, huyết sinh thì có thể làm nhuận cái đã khô héo.” (《Y Phương Khảo》 quyển 3)
  3. Dụ Xương: “Bài thuốc này kết hợp Hoàng Kỳ Kiến Trung Thang, Tứ Quân Tử Thang, Tứ Vật Thang, tổng cộng được mười vị, hợp với số thành của trời đất, đặt tên là Thập Toàn Đại Bổ, để trị tình trạng khí huyết đều suy, âm dương cùng yếu, thực đáng quý. Nhưng vị cay nóng của Nhục quế, chưa thể làm quân. Xét thấy thận hư đau lưng bụng, dùng ít Nhục quế; nếu dinh vệ hư, cần dùng ít Quế chi để điều hòa, lấy làm tá sứ là được.” (《Y Môn Pháp Luật》 quyển 6)
  4. Vương Tử Tiếp: “Tứ Quân, Tứ Vật gia Hoàng kỳ, Nhục quế, là pháp cương nhu phục hồi. Vì Tỳ là tạng nhu, dùng Tứ Quân là thuốc cương để chế ngự, e rằng quá cương làm tổn thương nhu, bèn phục hồi bằng Hoàng kỳ để duy trì nhu khí. Can là tạng cương, dùng Tứ Vật là thuốc nhu để chế ngự, e rằng quá nhu làm tổn thương cương, bèn phục hồi bằng Nhục quế để bảo vệ cương khí. Sự điều hòa chu đáo, gọi là Thập Toàn. Chỉ bổ Can Tỳ mà gọi là ‘Đại’, là vì 《Thái Âm Dương Minh Luận》nói: Tỳ tạng là nơi thường chứa tinh hoa của Vị thổ, sinh ra vạn vật mà noi theo trời đất, là cái gốc lập mệnh của hậu thiên. Can tuy là tạng dương mà ở vị trí thấp, không để nó có cái họa hư thực thừa thắng, nên phải trong việc bổ ích vẫn ngụ ý pháp cương nhu tương chế, khiến cho Can hòa Tỳ kiện, trung cung sinh hóa không ngừng, giống như trời đất định vị mà vạn vật sinh sôi, nên gọi là Đại Bổ.” (《Giáng Tuyết Viên Cổ Phương Tuyển Chú》 quyển trung)
  5. Trương Bỉnh Thành: “Bát Trân có công năng bổ cả khí và huyết, điều đó không cần bàn cãi. Lại thêm Hoàng kỳ để trợ chính khí mà ích vệ, Nhục quế để ôn huyết mạch mà hòa dinh. Hơn nữa, các vị thuốc được sức ấm dưỡng, thì tính bổ càng đủ, hiệu quả thấy càng nhiều, không chỉ dương hư có thể ôn, mà người âm hư cũng có thể ôn, vì không có dương thì âm không thể sinh ra, cho nên tất cả các vật hữu hình, đều thuộc âm, không gì không sinh ra vào mùa xuân hạ mà chết đi vào mùa thu đông. Phàm gặp người chân âm khuy tổn, sắp thành các chứng lao sái…, đều nên dùng các vị ngọt ấm để thu hiệu quả. Hoặc người hư rất nặng, ngay cả Bào khương, Nhục quế, cũng có thể gia vào trong một đội quân thuốc bổ, tự có thần hiệu. Nếu chỉ dùng các loại thuốc đắng hàn nhu tĩnh, các loại thuốc tư nhuận, uống lâu ngày, không chỉ âm không thể sinh ra, mà dương khí hòa hoãn và sinh khí ngày càng mất đi, không đến lúc dương khí cùng quy về cõi chết thì không dừng. Thường nhớ chữa cho người một chứng âm hư nội nhiệt, nhiều lần dùng các bài thuốc ngọt hàn nhuận tĩnh, mà nhiệt vẫn không lui, trong đơn cũ gia thêm Bào khương 5 phân, nhiệt đó liền lui, thật thần kỳ, nhân đó ghi lại để giúp người học tham khảo.” (《Thành Phương Tiện Độc》 quyển 1)

【Bình luận Về thành phần của bài thuốc này, các nhà y học đều cho rằng nó là sự kết hợp của Tứ Quân Tử Thang và Tứ Vật Thang. Còn về lý do gia thêm Hoàng kỳ, Nhục quế, Vương Hảo Cổ và Dụ Xương cho rằng có ý của Hoàng Kỳ Kiến Trung Thang và Tiểu Kiến Trung Thang. Mặc dù trong Thập Toàn Đại Bổ Thang có chứa đa số các vị thuốc của hai bài Kiến Trung, nhưng công năng kiến trung cốt lõi của hai bài đó nằm ở việc dùng nhiều di đường để ngọt ấm bổ trung, hoãn cấp chỉ thống, và là quân dược trong bài. Do đó, không có di đường mà gọi là Hoàng Kỳ Kiến Trung hay Tiểu Kiến Trung dường như không thỏa đáng. Còn Trương thị luận giải từ nguyên lý dương sinh âm trưởng rất có sự độc đáo, ông nói: “Không có dương thì âm không thể sinh ra, cho nên tất cả các vật hữu hình, đều thuộc âm, không gì không sinh ra vào mùa xuân hạ mà chết đi vào mùa thu đông. Phàm gặp người chân âm khuy tổn, sắp thành các chứng lao sái…, đều nên dùng các vị ngọt ấm để thu hiệu quả. Hoặc người hư rất nặng, ngay cả Bào khương, Nhục quế, cũng có thể gia vào trong một đội quân thuốc bổ, tự có thần hiệu. Nếu chỉ dùng các loại thuốc đắng hàn nhu tĩnh, các loại thuốc tư nhuận, uống lâu ngày, không chỉ âm không thể sinh ra, mà dương khí hòa hoãn và sinh khí ngày càng mất đi, không đến lúc dương khí cùng quy về cõi chết thì không dừng”. Về Nhục quế trong bài này, sách gốc ghi là “Quế, bỏ vỏ”, có thể thấy là Quế tâm. Hiện đại đa số dùng Nhục quế. Dụ thị đề xuất nếu có dấu hiệu dinh vệ không hòa, có thể đổi dùng Quế chi, thuyết này cũng có thể dùng để tham khảo khi ứng dụng lâm sàng bài thuốc này.

【Ví dụ bệnh án

  1. Đột nhiên ngất xỉu – 《Hạnh Uyển Sinh Xuân》 quyển 7: Có một chứng, đột nhiên ngất xỉu, mồ hôi lạnh tự ra, khi khí định lại thì tỉnh lại, thỉnh thoảng lại phát tác, có vẻ như trúng phong. Đây là do khí hư dương suy, không thể dùng các thuốc trị phong, trị khí. Dùng Thập Toàn Đại Bổ Thang làm chủ. Nặng thì gia thêm Hắc phụ tử.
  2. Sốt rét – 《Thạch Sơn Y Án》 quyển 1: Một người gần 30 tuổi, người gầy, da hơi tím, tháng tám bị bệnh sốt rét. Tôi khám, mạch bên trái khá hòa mà nhanh, mạch bên phải yếu mà vô lực. Bảo dùng Thanh Thử Ích Khí Thang gia giảm để uống, cảm thấy ngực bụng đầy tức, bèn sợ Nhân sâm. Đổi thầy thuốc khác trị theo bệnh sốt rét, mà cơn sốt lúc lui lúc tới, uống thuốc cắt cơn thì bệnh hơi tăng. Kéo dài đến tháng mười, lại mời tôi khám, mạch đều phù tiểu mà nhu đới sác, có lúc lại gần như bất túc. Nói: “Chính khí đã hư lâu ngày, tà khí lưu lại không ra, sốt rét vẫn chưa dứt. Nên dùng Thập Toàn Đại Bổ Thang giảm Quế, gia Cầm, tăng liều Sâm, uống vào dần dần khỏi.”
  3. Chứng nuy (teo cơ, bại liệt) – 《Chỉ Viên Ức Thảo Tồn Án》: Lưu Đại giám ở xưởng dệt, bị bệnh nuy một năm, muốn mau có hiệu quả, người ta cũng đều cho dùng các thuốc hiệu quả sớm tối. Tháng hai, tôi khám, lục mạch tế nhược, khí huyết đại hư, dùng Thập Toàn Đại Bổ Thang, uống gần trăm thang thì có thể đứng dậy.
  • Lời bàn: Cơn ngất trong án 1 là do khí huyết khuy hư, các khiếu ở trên không được nuôi dưỡng, thần chí không yên gây ra, do đó dùng Thập Toàn Đại Bổ Thang đại bổ khí huyết mà có hiệu quả. Bệnh sốt rét trong án 2, mắc phải vào lúc mùa hè nóng nực, chẩn đoán là thử nhiệt làm hao tổn khí và tân dịch, cho dùng Thanh Thử Ích Khí Thang để trị, nhưng bệnh nhân nghi ngờ bài thuốc mà đổi sang dùng thuốc cắt cơn sốt rét, dẫn đến chính khí càng tổn thương, không đủ sức chống lại tà, tà khí lưu luyến dần thành lao ngược. Đối với chứng chính khí đại hư mà có kèm thực tà này, nên lấy việc bổ hư bồi bổ cái gốc làm chủ, tham khảo thêm việc cắt cơn khu tà, bèn cho Thập Toàn Đại Bổ Thang giảm Nhục quế có tính cay nóng trợ tà, gia Hoàng cầm để thanh nhiệt ở Thiếu dương, lại tăng gấp đôi Nhân sâm để đại bổ nguyên khí. Đợi nguyên khí phục hồi, chính khí có sức chống tà, thì tà khí đi mà các chứng hàn nhiệt tự hết. Chứng nuy trong án 3, cũng thuộc chứng khí huyết lưỡng hư, gân mạch không được nuôi dưỡng, do bệnh lâu ngày khó chữa, lại khí huyết đại hư, khó cầu hiệu quả nhanh, nên uống trăm thang Thập Toàn Đại Bổ Thang mà khỏi.

Thọ Khang Đường chuyên sỉ và lẻ thuốc bắc chính phẩmthuốc bắc loại một tại Sài Gòn.

Tiệm thuốc bắc Quận 2 số 94 Vũ Tông Phan, Phường An Phú, Quận 2

https://www.facebook.com/thokhangyquan

https://www.youtube.com/@thokhangduong

Similar Posts