Hổ trượng trừ ứ sinh tân, thanh lợi thấp nhiệt
Hổ trượng (虎杖) tính đắng hơi hàn, quy kinh Can, Đởm, Phế, công năng hoạt huyết trừ ứ, lợi thấp thoái hoàng, thanh nhiệt giải độc. Chủ trị phong thấp gân cốt đau nhức, thấp nhiệt hoàng đản, lâm trọc đới hạ, phụ nữ kinh bế, sau sinh ác lộ không ra, trưng hà tích tụ, băng lậu hạ huyết, té ngã tổn thương, bỏng, ác sang, nấm ngoài da. “Bản thảo thuật câu nguyên” quyển chín “Hổ trượng” viết: “Là từ nguồn sinh hóa của huyết, để trừ kết nhiệt, do đó huyết tạng của thủ quyết âm và phong tạng của túc quyết âm, trị nó như trống ứng với dùi vậy.” Thầy Nhan trên lâm sàng phát hiện hổ trượng có tác dụng cân bằng sự thăng giáng của huyết đồ ngoại vi, thường dùng để điều trị các bệnh nhiễm trùng, bệnh về máu, v.v.
[Kinh nghiệm dùng thuốc]
- Thanh nhiệt thông phủ: Hổ trượng tính hàn vị đắng, tính của nó hoạt lợi. Vừa lợi tiểu tiện, cũng thông đại tiện. Phàm thấp nhiệt nội trở, nhị tiện bất lợi, hoàng đản, sốt, phụ nữ lâm trọc, v.v., thầy Nhan quen dùng hổ trượng để trị, để thấp nhiệt được bài trừ qua nhị tiện.
- Trừ ứ sinh tân: Các sách bản thảo qua các đời đều nói hổ trượng có công hiệu hoạt huyết hóa ứ. Thầy Nhan trên lâm sàng phát hiện hổ trượng không chỉ giỏi hoạt huyết, mà còn có tác dụng sinh tân, đối với các bất thường về huyết đồ do các bệnh khác nhau gây ra, thường dùng hổ trượng cùng với thăng ma, kê huyết đằng, có tác dụng điều tiết tốt.
- Ví dụ phối hợp thuốc theo chứng (1) Thấp nhiệt hoàng đản: Có thể dùng riêng vị này sắc uống là có hiệu quả, sơ can lợi đởm. Cũng có thể dùng chung với tiên nhân đối tọa thảo, nhân trần, chi tử, để tăng cường hiệu quả, thanh lợi thấp nhiệt, dẫn thấp nhiệt giải qua nhị tiện. (2) Phế nhiệt khái thấu: Thầy Nhan cho rằng hổ trượng có thể thanh tả phế nhiệt, trừ đàm chỉ khái, lại có thể thông tiện, Phế và Đại tràng có quan hệ biểu lý, làm cho tà nhiệt theo đại tiện mà giải. Thường phối hợp sử dụng với tang bạch bì, ngư tinh thảo, cát cánh, v.v., điều trị ho do phế nhiệt, làm cho nội nhiệt được thanh, phế khí được giáng. (3) Bệnh về máu: Thầy Nhan trên lâm sàng dùng hổ trượng phối với thăng ma điều trị các bệnh về máu, như giảm bạch cầu, tăng bạch cầu ái toan, giảm tiểu cầu, v.v., nhiều lần có kết quả.
- Cách dùng và liều lượng: Sắc nước uống, 9~15g.
[Ví dụ bệnh án]
Bệnh nhân Triệu, nam, 16 tuổi. Bệnh nhân do sốt nhẹ, ho, đau đầu, đau họng được chẩn đoán là nhiễm trùng đường hô hấp trên và nhập viện. Xét nghiệm công thức máu: Bạch cầu 4.45×10⁹/L, bạch cầu trung tính 13%, bạch cầu ái toan 77%, lympho bào 8%, bạch cầu đơn nhân 2%, hồng cầu 3.46×10¹²/L, huyết sắc tố 10.2g/dL, đếm trực tiếp bạch cầu ái toan 2.2×10⁹/L. Sinh thiết hạch cổ cho thấy: bạch cầu ái toan thâm nhiễm lượng lớn, viêm hạch mạn tính. Chọc hút tủy xương cho thấy: tăng bạch cầu ái toan. Chẩn đoán xác định, đã dùng hydroxyzine hydrochloride, chlorpheniramine maleate và penicillin, v.v. điều trị kháng khuẩn, chống dị ứng hơn một tháng, hiệu quả không rõ, chuyển sang khoa Trung y.
Khám lần đầu: Đau đầu như dùi đâm, đầu váng, có ban xuất huyết ở kết mạc, môi hơi tím, chất lưỡi tím sẫm, tĩnh mạch dưới lưỡi giãn, mạch tế huyền. Đàm trệ mạch lạc, phong dương thượng nhiễu thanh không. Dùng Đào hồng tứ vật thang gia vị.
Toa thuốc: Đương quy 9g, sinh địa 12g, xuyên khung 9g, xích thược 9g, hồng hoa 9g, hổ trượng 30g, cam thảo 3g. 4 thang. Tái khám lần hai: Dùng bài thuốc hoạt huyết trừ ứ, bạch cầu ái toan dần dần giảm, ban xuất huyết ở môi và màng cứng đã giảm, đầu vẫn đau, chất lưỡi tím nhạt, mạch tiểu sác. Toa trước hợp bệnh, dùng lại thêm ôn dương trừ phong để trợ lực hóa ứ.
Toa thuốc: Đương quy 9g, sinh địa 12g, xích thược 9g, hồng hoa 9g, thạch nam diệp 9g, đào nhân 9g, xuyên khung 9g, hổ trượng 15g, đan sâm 30g, chế xuyên ô 4.5g. Uống toa trên hơn 2 tháng, đau đầu khỏi hẳn. Xét nghiệm công thức máu: Bạch cầu 6.2×10⁹/L, bạch cầu trung tính 56%, lympho bào 33%, bạch cầu đơn nhân 9%, bạch cầu ái toan 2%, đếm trực tiếp bạch cầu ái toan 0.8×10⁹/L, khỏi bệnh xuất viện.
Lời bàn: Tăng bạch cầu ái toan, Tây y cho rằng do các yếu tố dị ứng như ký sinh trùng đường ruột hoặc nhiễm virus gây ra, hiện chưa có phương pháp điều trị hiệu quả. Ca này chủ yếu là đau đầu, mà đau đầu không phải là triệu chứng đặc hiệu của tăng bạch cầu ái toan. Thầy Nhan dựa vào triệu chứng của bệnh nhân: ban xuất huyết màng cứng, môi hơi tím, chất lưỡi tím, tĩnh mạch dưới lưỡi giãn, đau đầu như dùi đâm, v.v., biết được ứ trệ tắc ở khiếu lạc, phong dương nội khách, thanh không thăng mà trọc không giáng. Vận dụng “pháp cân bằng”, dùng Đào hồng tứ vật thang gia bội xuyên khung, sau khi uống thuốc, xét nghiệm cận lâm sàng theo triệu chứng biến mất mà trở lại bình thường. Toa tái khám thêm xuyên ô mà nhanh hiệu quả, lấy lực trừ phong phù dương của nó, phấn chấn dương khí, loại trừ bệnh tà trong một sớm một chiều. (Phí Hồng Tường)
Thọ Khang Đường chuyên sỉ và lẻ thuốc bắc chính phẩm, thuốc bắc loại một tại Sài Gòn.
Tiệm thuốc bắc Phường Bình Trưng số 94 Vũ Tông Phan, Phường Bình Trưng, TP Hồ Chí Minh