Trần Tự Minh, tự Lương Phủ, người Tống, quê ở Lâm Xuyên, sống vào khoảng năm 1190 – 1270. Trần Tự Minh xuất thân trong một gia đình ba đời làm nghề y, thành tựu y học của ông vượt xa cha mình, đặc biệt ông rất có nghiên cứu về phụ khoa. Trong Trung y, việc điều trị các bệnh phụ khoa từ sớm đã có các tác phẩm như thiên “Phụ nhân” trong “Kim Quỹ Yếu Lược”, các thiên “Phụ nhân” trong “Thiên Kim Yếu Phương”, các sách như “Kinh Hiệu Sản Bảo” của Tăng Cổ, “Sản Dục Bảo Khánh Phương” của Lý Sư Thánh, “Sản Dục Kinh Nghiệm Phương” của Lục Tử Chính, v.v., nhưng nội dung đều tương đối sơ lược. Trần Tự Minh vì cảm thấy không thỏa mãn, đã sưu tầm hơn ba mươi loại sách y học liên quan đến sản phụ khoa qua các đời, kết hợp với kinh nghiệm gia truyền của mình, sau khi chỉnh lý đã biên soạn thành sách “Phụ Nhân Đại Toàn Lương Phương”, đóng góp nhất định cho y học sản phụ khoa của tổ quốc.
Nguồn Gốc Học Thuật và Phương Pháp Trị Liệu
Trần Tự Minh cho rằng, để trị bệnh cố nhiên là có phương thuốc, nhưng người nắm vững phương thuốc lại là thầy thuốc, do đó không thể chỉ thiên về một phương một thuốc nào, điều quan trọng nhất là thầy thuốc phải học tập tốt lý luận y học, nắm vững quy luật biện chứng luận trị. Là một thầy thuốc, nếu chỉ biết một phương một thuốc, thì dù có hiệu quả nhất thời, cũng sẽ mau chóng đi đến chỗ bó tay không còn cách nào khác. Giả sử thầy thuốc có trình độ học thuật tu dưỡng rất cao, thì có thể biện chứng bình mạch, tùy chứng mà trị, theo chứng mà lập pháp, một phương không hiệu quả thì có thể đổi phương khác. Từ đó sẽ không rơi vào tình thế “thế vô nan trị chi chứng, nhi hữu bất thiện trị chi y” (đời không có chứng bệnh nào khó chữa, chỉ có thầy thuốc không giỏi chữa bệnh). Nếu chỉ nắm vững những phương thuốc có tính cục bộ, một khi không có hiệu quả, sẽ rơi vào tình cảnh “khán phương tam niên, vô bệnh khả trị, trị bệnh tam niên, vô phương khả dụng” (xem phương ba năm, không có bệnh nào chữa được, chữa bệnh ba năm, không có phương nào dùng được).
Vậy phương pháp trị liệu của Trần Tự Minh rốt cuộc là như thế nào? Ông chủ yếu lấy lý luận của “Nội Kinh” làm chỉ đạo. Ví như trong “Phụ Nhân Đại Toàn Lương Phương – Điều Kinh Môn” khi luận thuật về sinh lý của kinh nguyệt, chính là dựa vào những luận thuật trong “Tố Vấn – Thượng Cổ Thiên Chân Luận” như “Nữ tử thất tuế, thận khí thịnh, xỉ canh phát trưởng, nhị thất nhi thiên quý chí, nhâm mạch thông, thái xung mạch thịnh, nguyệt sự dĩ thời hạ” và lấy thuyết “Thiên quý” cùng “Xung nhâm nhị mạch” làm cơ sở lý luận quan trọng. Không chỉ như vậy, phần lớn các luận thuật của ông đều lấy lý luận của “Nội Kinh” làm cơ sở. Ví như khi luận về “Phụ nhân thủ túc bất tùy” (tay chân phụ nữ không cử động theo ý muốn), ông nói: “Chư dương chi hội, giai khởi vu thủ túc nhi hành vu thân thể, phong hàn chi khách vu dương kinh, tắc khí huyết ngưng trệ nhi vi tý.” Khi luận về “Phụ nhân cước khí” (bệnh cước khí ở phụ nữ), ông nói: “Nữ tử dĩ bào lạc duy hàn, vi phong độc sở…” Khi luận về “Phụ nhân tâm phúc cổ trướng” (bụng trướng như trống ở phụ nữ), ông nói: “Phu nhân tâm phúc cổ trướng giả, do tỳ vị cửu hư (bệnh hư lâu ngày), khí huyết tịnh tổn nhi thành khách chi, thừa hư nhi phạm cố dã.” Lại như “Phụ nhân thiếu phúc kiên mãn, khởi trướng chí ư tâm hạ”, ông giải thích là “Túc quyết âm chi mạch khởi vu túc, nhi thượng hội vu can, nhập vu phế trung. Kì chi giả tòng can, xuất lạc vu đảm, nhi thượng quán cách, bố hiếp lặc. Tà khí khách ư tam kinh, dữ chính khí tương bác, tích tụ tại nội, khí tịnh vu đởm, ức tắc bất thông, cố lệnh tâm phúc trướng mãn nhi quyên dã.” Lại như khi luận về “Phụ nhân hát nghịch” (nấc cụt ở phụ nữ), ông cũng lấy “Xuất can bệnh mạch, xuất phế bệnh mạch, xuất tâm bệnh mạch chi thuyết” làm cơ sở. Tất cả những điều này đều đủ để chứng minh rằng, việc xiển dương lý luận của “Nội Kinh” là tư tưởng chủ đạo trong y học của Trần Tự Minh.
Thứ hai, đối với những phương thuốc có ảnh hưởng lớn đến Trần Tự Minh như “Tứ Vật Thang” của Đan Khê, trong “Bệnh Nguyên Hầu Chứng” có luận về chứng “Nguyệt thủy bất điều” (kinh nguyệt không đều), cho rằng do lao tổn khí huyết, tỳ hư mà hàn tà xâm nhập vào bào trung, làm tổn thương mạch Nhâm. Lại như luận về chứng “Băng trung đới hạ”, cho rằng do kinh huyết không điều hòa, phong tà xâm nhập vào bào tử, truyền xuống mà thành. Lại như luận về chứng “Thai tiền chúng chứng”, cho rằng do lao tổn khí huyết, trung khí suy nhược, dẫn đến “Ác trở tâm thống”. Lại như luận về chứng “Phụ nhân ác trở trở bất dĩ” (nôn nghén không dứt ở phụ nữ), cho rằng do bào lạc hư hàn, tà nhiệt tương bác… Tất cả những điều này đều xuất phát từ “Bệnh Nguyên Hầu Chứng”. Do đó, có thể nói, Trần Tự Minh đã tổng kết các thành tựu y học phụ khoa của các đời trước, lấy lý luận của “Nội Kinh” làm chỉ đạo, đồng thời tham khảo “Bệnh Nguyên Hầu Chứng” để tiến hành nghiên cứu.
Cống Hiến Đối Với Phụ Khoa
Trần Tự Minh vì cảm thấy các sách y khoa của các đời trước phần nhiều “cương lĩnh rời rạc mà không có hệ thống”, do đó ông đã đưa ra những cương lĩnh và cơ sở lập pháp cho việc nghiên cứu các bệnh của phụ khoa. Ví dụ, ông cho rằng chứng “Kinh nguyệt bất chí” (kinh nguyệt không đến) là do “Can tỳ tổn thương” là nguyên nhân chủ yếu gây bệnh. Ông cho rằng, phụ nữ thủy hỏa không đều, do lao thương khí huyết mà dẫn đến tỳ hư, hoặc do phòng dục không điều độ, hoặc do huyết khô, tổn thương can tỳ, nhưng nếu hóa nguyên của nó còn, thì tự nhiên sẽ thông. (“Phụ Nhân Đại Toàn Lương Phương – Nguyệt Thủy Bất Thông Luận”).
Do đó, Can Tỳ là hai kinh của nguyệt thủy, giúp chứa đựng huyết, can chủ tàng huyết, gan thụ huyết thì nhu, bất thụ thì không điều hòa. Nhất là bào lạc của dinh huyết bị tổn thương, sẽ dẫn đến sự mất đi cái gốc sinh hóa của nó. thì nguồn hóa của kinh nguyệt sẽ bị cạn kiệt, càng không thể thông lợi được. Vì vậy, khi chẩn đoán lâm sàng, nếu kinh nguyệt không thông, thực chứng thường ít, mà thường do Can Tỳ hư yếu không thể sinh huyết, hoặc do tổn thương Nhâm Đốc mà huyết không hành, hoặc do tích tụ ứ huyết mà huyết bị tắc nghẽn, có trường hợp thuỷ không tưới nhuần mộc mà mộc khô héo. Trần Tự Minh lấy “Can Tỳ” làm cương lĩnh, tuy chưa thể khái quát hết, nhưng đã nắm được mắt xích chủ yếu của bệnh này. Ông chủ trương “trị bệnh phải tìm gốc”, do đó đối với chứng Can Tỳ hư yếu không hành huyết, thì bổ mà hành chi; đối với tổn thương Nhâm Đốc mà huyết không hành, thì hành khí hoạt huyết; đối với nước không tưới nhuần mộc mà kinh bế, thì nên tưới nhuần dưỡng Can. Tất cả những điều này đều có thể quy về phạm vi “trị bệnh phải tìm gốc”. Các luận thuật của Trần thị thường hướng về điều này, đây cũng chính là cống hiến chủ yếu của ông đối với phụ khoa.
Thứ hai, Trần Tự Minh đối với việc nghiên cứu phụ khoa, tuy chưa thể nắm bắt toàn diện, nhưng có thể nói là cũng khá đầy đủ. Ông gộp hai phương diện “phụ” (phụ khoa) và “sản” (sản khoa) làm một, chia thành “Điều kinh” (điều hòa kinh nguyệt), “Chúng tật” (các bệnh tật), “Cầu tự” (cầu con), “Thai giáo” (giáo dục thai nhi), “Hầu thai” (theo dõi thai), “Sản nan” (sinh khó), “Sản hậu” (sau sinh) tám đại loại, nội dung khá hệ thống. Các sách sản phụ khoa trước thời Trần thị đều chưa làm được điều này, điều này cũng có thể thấy rõ qua việc Trần thị đã nói “mục lục tuy tường tận mà chưa đầy đủ”. Vì vậy, chúng ta tổng kết lại những thành tựu toàn diện này của ông.
Đồng thời, ông cũng đưa ra những giải thích nổi bật đối với một số vấn đề còn tồn tại. Ví dụ, khi ông luận về chứng “Phụ nhân động thai, thương thai” (động thai, tổn thương thai ở phụ nữ), ông cho rằng khi dùng thuốc an thai, không nên dùng “Quế chi” (cành quế), “Bán hạ”, “Đào nhân” (nhân hạt đào), “Phác tiêu” (muối tiêu) các loại; phàm khi dùng thuốc, bệnh lui thì thôi, không nên dùng quá liều, để tránh dùng thuốc quá mạnh. (“Phụ Nhân Đại Toàn Lương Phương – Phụ Nhân Động Thai Thương Thai Luận”). Điều này cho thấy, tuy chứng động thai và tổn thương thai ở phụ nữ giống nhau, nhưng khi mang thai mà bị động thai, tổn thương thai, thì phải căn cứ vào những thay đổi đặc biệt của thai phụ mà dùng thuốc, không thể theo một phương pháp cố định.
Lại như ông luận về chứng “Động thai bất an”, cho rằng hoặc do thai phụ động thai, hoặc do ăn uống sinh hoạt, hoặc do chạm phải mạch Nhâm, hoặc do lo nghĩ tổn thương Can khí, hoặc do khí huyết hư yếu, đều nên căn cứ vào nguyên nhân gây bệnh mà chữa trị; nếu do mẫu bệnh mà động thai, thì trị mẫu bệnh; nếu do thai động mà ảnh hưởng đến mẫu, thì nên an thai. (“Phụ Nhân Đại Toàn Lương Phương – Động Thai Bất An Luận”). Điều này không chỉ nêu ra tinh thần chủ yếu của việc tìm gốc bệnh khi dùng thuốc, mà còn nghiêm túc xác lập nguyên tắc chủ yếu trong việc điều trị và bảo vệ thai nhi.
Ví dụ, Trần Tự Minh từng đề cập đến việc có những thai phụ bị vỡ tử cung mà dẫn đến thai chết lưu, ngày nay trên lâm sàng cũng thường gặp những trường hợp do sản phụ dùng thuốc không đúng cách mà dẫn đến vỡ tử cung, thai chết lưu, triệu chứng rất nguy hiểm. Thường có kinh nghiệm là bệnh nhân xuất huyết ở đường sinh dục dưới. Loại bệnh này, sách thuốc thông thường ít đề cập đến, chúng ta căn cứ vào đạo lý “Băng quyết” của Trần thị về sản hậu và vỡ tử cung, dùng “Băng tuyền hoàn” hợp với “Bổ trung ích khí thang”, hiệu quả rất tốt. Có thể thấy, những nhận thức này của Trần Tự Minh rất có giá trị, chắc chắn là có sự kế thừa phong phú từ gia truyền.
Ngoài ra, Trần Tự Minh đối với ngoại khoa cũng có những nghiên cứu nhất định. Ông cho rằng bệnh trĩ lậu là một khoa…
như các sách “Lưu Quyên Tử Quỷ Di Phương” (Lưu Quyên Tử để lại phương thuốc lạ), v.v. nhưng do người đời sau không tìm hiểu sâu, chỉ chuyên về ngoại khoa đơn thuần, ít tìm tòi những manh mối tinh tế, thông hiểu những đạo lý sâu xa, khiến cho sự phát triển của ngoại khoa nước ta diễn ra rất chậm chạp. Trần thị rất không hài lòng với thói quen sơ sài này, vì vậy ông đã tập hợp ý kiến của nhiều người, tự mình lập ra cương lĩnh, tổng kết thành ba quyển “Ngoại Khoa Tinh Yếu”. Sách này đối với các chứng ung thư nông sâu, hư thực, hàn nhiệt, hoãn cấp, cát hung, tử sinh, đều biện giải rất tường tận, có nhiều giá trị tham khảo. Một đặc điểm khác của Trần thị về phương diện này, đó là ông rất coi trọng việc điều trị toàn thân. Thông qua thực tiễn lâu dài, ông nhận thấy rằng “ung thư” tuy phần nhiều biểu hiện ở ngoài cơ thể, nhưng không phải là không liên quan đến nội tạng, nếu phát ra mà không sớm chữa trị, có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến nội tạng mà nguy hiểm đến tính mạng. Bởi vậy ông cho rằng trong quá trình điều trị, ngoài việc dùng kim châm, xoa bóp cố định bên ngoài, thì nhất thiết phải dùng thuốc uống điều hòa bên trong cũng không thể thiếu. Thực tế đã chứng minh, phương pháp ngoại trị kết hợp với quan niệm điều trị toàn thân phong phú này, đối với các bệnh loại ung nhọt, phát bối, đơn độc, v.v. quả thực thường có tác dụng chuyển nguy thành an, rất đáng được phát huy.
Tóm lại, Trần Tự Minh đã tổng kết những thành tựu y học do nhân dân lao động sáng tạo ra, tiến hành nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống đối với phụ khoa, ngoại khoa, thúc đẩy sự phát triển của y học nước ta, làm cho hai khoa phụ, ngoại này càng thêm hoàn chỉnh. Đặc biệt là phụ khoa, sau đời ông, sự phát triển càng lớn mạnh hơn, các tác phẩm “Tế Âm Cương Mục” của Võ Chi Vọng, “Nữ Khoa Chuẩn Thằng” của Vương肯堂 (Vương Khẳng Đường), v.v. đều chịu ảnh hưởng không nhỏ từ “Phụ Nhân Đại Toàn Lương Phương”.
Tuy nhiên, do những hạn chế của lịch sử, học thuật của Trần Tự Minh vẫn còn những mặt chưa hoàn thiện. Ví dụ, đối với chứng “kinh nguyệt không thông”, ông chỉ tìm hiểu đến nguyên nhân do Can Tỳ hư tổn, mà chưa xét đến các nguyên nhân như thận hư hỏa suy, tâm huyết thiếu hụt hay phế khí không hành huyết, v.v. Khi chúng ta điều trị, nên tìm cầu từ nhiều phương diện, không nên khư khư giữ một phép không đổi.
Thọ Khang Đường chuyên sỉ và lẻ thuốc bắc chính phẩm, thuốc bắc loại một tại Sài Gòn.
Tiệm thuốc bắc Quận 2 số 94 Vũ Tông Phan, Phường An Phú, Quận 2