Quế chi Nhục quế ôn dương thông mạch hiệu quả
Quế chi (桂枝) tính vị cay, ngọt, ấm, quy kinh Tâm, Phế, Bàng quang. Công năng phát hãn giải cơ, ôn thông kinh mạch, trợ dương hóa khí. “Bản kinh sơ chứng” quyển bốn viết: “Phàm là thuốc đều phải tìm hiểu thể và dụng của nó, quế chi có thể lợi khớp, ôn kinh thông mạch, đó là thể của nó.” Thầy Nhan lấy công hiệu ôn kinh thông mạch của quế chi, trên lâm sàng điều trị nhiều loại bệnh như bệnh tim mạch, phù thũng, chứng tý, v.v., hiệu quả rõ rệt.
[Kinh nghiệm dùng thuốc]
- Ôn dương tán hàn: Quế chi là cành non của cây nhục quế, vị cay ngọt mà ấm, ôn phế mà hóa đàm ẩm, tán hàn tà ở huyết phận. Một vị thuốc mà kiêm có mấy công dụng: tán hàn, ôn dương, hóa ẩm. Thầy Nhan cho rằng tính vị của nhục quế và quế chi giống nhau, nhưng chủ trị hơi khác, nhục quế chủ về phần lý của toàn thân, quế chi chủ về phần biểu của toàn thân; nhục quế thiên về ôn bổ, quế chi thiên về ôn thông, công năng của cả hai đều lấy “ôn” làm tôn chỉ.
- Hoạt huyết thông mạch: Quế chi cay tán ôn thông, vào kinh Tâm, giỏi về hoạt huyết thông mạch, sơ thông kinh mạch toàn thân,既 có thể ôn tâm dương, lại có thể trừ ứ huyết ở tâm mạch. Thầy Nhan quen dùng quế chi để điều trị nhiều bệnh tim mạch, như hung tý, hồi hộp, tâm thủy, v.v., có thể đạt hiệu quả tốt.
- Ví dụ phối hợp thuốc theo chứng (1) Hồi hộp: Quế chi cay ngọt mà ấm, ôn thông tâm dương, dùng cho trường hợp dương khí hư nhược, không đủ sức cổ động huyết mạch, mạch khí không nối tiếp nhau gây ra tim đập nhanh, mạch kết đại. Thầy Nhan cho rằng quế chi phối hợp với cam thảo là cặp thuốc điều trị hồi hộp nguyên thủy nhất, như Linh quế truật cam thang, Quế chi long mẫu thang, Quế chi gia quế thang và Chích cam thảo thang, đều chứa quế chi, cam thảo, có thể điều trị hồi hộp do các bệnh cơ khác nhau. (2) Hung tý: Dùng cho trường hợp hung dương không phấn chấn, tâm mạch ứ tắc gây ra hung tý tâm thống, hồi hộp, hơi thở ngắn, ít nói, lười nói, vốn sợ lạnh, lưỡi nhạt trắng, mạch tế, v.v. Thầy Nhan thường phối hợp với chỉ thực, quế chi, v.v., để thăng giáng khí cơ, và cầu hiệu quả khí thông huyết hoạt; nếu kiệm hàn tà nội xâm, có thể dùng quế chi phối hợp với phụ tử, can khương, v.v. là các vị thuốc ôn dương, để tăng cường công hiệu ôn thông của nó. Ngoài ra, như hội chứng Raynaud, v.v., có thể dùng Bổ dương hoàn ngũ thang gia quế chi, để ích khí hoạt huyết thông mạch. (3) Tâm thủy: Dùng cho trường hợp dương khí bất túc, thủy ẩm lấn lên tâm hung gây ra ngực bĩ thở đầy, hung tý tâm thống, mặt, tứ chi phù thũng, v.v. Thầy Nhan trị chứng này chú trọng trị cả gốc lẫn ngọn. Trị gốc là ôn bổ dương khí, tất phải phối hợp với phụ tử, can khương; trị ngọn là lợi thủy, thường phối hợp với phục linh, bạch truật, v.v. là các vị thuốc kiện tỳ lợi thấp, như trư linh, phục linh, trạch tả, trạch lan, v.v. Trị hen suyễn, thận không nạp khí, thường dùng Tô tử giáng khí thang, lấy nhục quế bổ thận, tô tử giáng khí, và thường phối hợp với thục địa, sa nhân, tử hà xa, tùy cơ mà dùng. (4) Chứng tý: Quế chi là cành của cây quế, quế có thể đến được tứ chi, giỏi đi vào các khớp ở tứ chi, điều trị chứng tý. Thầy Nhan cho rằng phàm là phong hàn thấp tý, đều lấy kinh mạch khí huyết không thông làm bệnh cơ, quế chi đều có thể ứng dụng. Còn thấp nhiệt tý thống, triệu chứng thấy khớp đỏ sưng đau, cục bộ sợ nóng thích lạnh, quế chi có thể dùng chung với thạch cao, tri mẫu, như Quế chi bạch hổ thang, Quế chi thược dược tri mẫu thang.
- Cách dùng và liều lượng: Sắc nước uống, quế chi 6~9g, nhục quế 3~6g.
[Ví dụ bệnh án]
Bệnh nhân Đàm, nam, 35 tuổi, thợ mộc. Vốn bị viêm khớp chi dưới, sau đó do không cẩn thận bong gân ở chân, đau nhức càng nặng, đã từng điều trị bằng cách tiêm tại chỗ, đau nhức có đỡ, nhưng sau đó hai chi dưới tê dại không cảm giác, không thể đi lại, hơi bị lạnh là xuất hiện hội chứng Raynaud, triệu chứng thấy hai bên chi trên dưới trắng bệch, xanh tím, tự cảm thấy tê dại, căng đau, tay chân không dùng được, rêu lưỡi mỏng trắng, mạch huyền tế. Tỳ thận bất túc, hàn ngưng khí huyết, ứ trệ kinh lạc. Trị bằng cách ôn kinh tán hàn.
Toa thuốc: Phụ tử, xích thược mỗi vị 10g, quế chi, đương quy, xuyên ngưu tất mỗi vị 15g, can khương 6g, sinh hoàng kỳ 24g, đảng sâm 18g, bạch truật 12g, hồng hoa 9g, cam thảo 5g. Sau khi uống 30 thang, các triệu chứng dần dần biến mất. Tiếp tục dùng Hà xa đại tạo hoàn, mỗi lần 6g, ngày 2 lần, uống liền 3 tháng thì khỏi.
Lời bàn: Hội chứng Raynaud thuộc phạm trù “chứng tý” của Trung y học, bệnh nhân tay chân không dùng được, mà chi dưới đặc biệt nặng, gặp lạnh thì nặng hơn, chứng thuộc tỳ thận dương suy, kinh lạc tắc nghẽn. Pháp trị nên lấy cố bản thanh nguyên, ôn bổ kiêm thi. Dùng phụ tử, quế chi, can khương để ôn kinh tán hàn, hồi dương thông mạch, giãn mạch máu, để cải thiện tuần hoàn máu ở chi; và phối hợp với hoàng kỳ, đảng sâm, bạch truật, đương quy, xích thược, hồng hoa, v.v. là các thuốc bổ khí dưỡng huyết, khí hành thì huyết hành, hiệu quả càng tốt. (Trương Lỗi, Hồ Kỳ Tường)
Thọ Khang Đường chuyên sỉ và lẻ thuốc bắc chính phẩm, thuốc bắc loại một tại Sài Gòn.
Tiệm thuốc bắc Phường Bình Trưng số 94 Vũ Tông Phan, Phường Bình Trưng, TP Hồ Chí Minh