Đinh hương ôn trung tán trệ, giáng nghịch chỉ ẩu 

Đinh hương ôn trung tán trệ, giáng nghịch chỉ ẩu 

Đinh hương (丁香) khí vị cay ấm, vào kinh Phế, Tỳ, Vị, Thận, công năng ôn trung tán hàn, giáng nghịch chỉ ẩu. Trên tán phế tà, khu phong hàn thấp nhiệt ở thượng tiêu; giữa ấm tỳ vị, khu tích uế trầm hàn túc ủng; dưới ấm thận mệnh, trị hàn khí của xung mạch xông lên trên. Nhan lão thường dùng Đinh hương (丁香) để điều trị các chứng nấc, nôn… do vị hàn gây ra.

[Tâm đắc dùng thuốc]

Ôn trung tán trệ. Đinh hương (丁香) vị cay ấm thuần dương, chỉ những người vị quản hàn tích ngưng trệ, uống vào mới có hiệu quả. Nhan lão cho rằng Đinh hương (丁香) vị cay có thể hành khí, tính ấm có thể tán hàn, là vị thuốc tốt tán hàn giảm đau. Uống trong điều trị đau lạnh do vị hàn; dùng ngoài thường phối hợp với Nhục quế, nghiền bột đắp ngoài, điều trị đau lạnh ở lưng và khớp tứ chi.

Trừ nôn cầm nấc. Tính của Đinh hương (丁香) có xu hướng đi xuống, vào kinh Thận. Phàm các trường hợp nấc do tỳ vị khí hàn, khí trệ, hoặc tỳ thận dương suy, không thể tiêu hóa thức ăn, ăn lâu thì nôn, Nhan lão thường dùng Đinh hương (丁香) ôn dương giáng nghịch, để cầu công hiệu cầm nôn định nấc.

[Ví dụ về phối hợp thuốc theo chứng bệnh] (1) Đau lạnh vùng thượng vị và bụng: Nhan lão cho rằng tỳ vị ưa ấm ghét lạnh, đối với chứng đau lạnh vùng thượng vị và bụng, thích ấm thích xoa bóp, rêu lưỡi trắng nhờn, chủ trương dùng phép ôn vận, phép từ dưới đáy nồi thêm củi, thích dùng Công đinh hương ôn chấn tỳ dương, phối hợp với Can khương, Bạch đậu khấu nhân, Bán hạ…, làm cho hỏa có thể sinh thổ, khảm dương cổ động, trung cung đại kiện. (2) Nấc: Nhan lão rất coi trọng tác dụng của vị dương, đối với chứng nấc do trung dương không phấn chấn, hàn thấp trở trệ gây ra, giỏi dùng Đinh hương thị đế thang gia giảm để dùng. (3) Đàm ẩm: Nhan lão trên lâm sàng trị đàm ẩm, triệu chứng thấy họng nghẹn, ho khạc ra bọt trắng, đờm đầy bát, thường dùng Công đinh hương phối hợp với Bán hạ, Tế tân, Ngũ vị tử, Can khương… để ôn tỳ dương, hóa đàm ẩm.

4. Cách dùng và liều lượng: Sắc nước uống, 1.5~3g. Dùng ngoài nghiền bột trộn đắp, cùng với Nhục quế lượng bằng nhau cùng nghiền thành bột mịn, tên là Đinh quế tán, có công năng ôn kinh thông lạc, hoạt huyết giảm đau, có thể dùng cho âm thư, chấn thương…

[Ví dụ bệnh án] Kim mỗ , nam, 27 tuổi. 1 năm trước bệnh nhân sau khi ăn đồ dầu mỡ tanh béo, xuất hiện buồn nôn, trướng bụng tiêu chảy, nội soi dạ dày cho thấy: viêm dạ dày nông mạn tính. Sau đó uống thuốc Trung y sơ can kiện tỳ không thấy cải thiện rõ rệt. Hiện bệnh nhân tự kể buồn nôn, sáng sớm ợ hơi, vị quản trướng khí đầy tức, và không thay đổi theo việc ăn uống, kèm theo đầu nặng như bị che lấp, đờm nhiều dễ ho, màu trắng, không có trào ngược axit, nôn mửa, không đau dạ dày, đêm ngủ không yên, dễ tỉnh sớm, tinh thần kém phấn chấn, đại tiểu tiện bình thường. Sơ chẩn: 1 năm trước ăn uống không cẩn thận, dẫn đến ngực đầy tức buồn nôn, tiếp theo là ngực đầy tức, ợ hơi, dần dần gầy đi, sáng dậy nhiều đờm, thần mệt mỏi mất ngủ, lưỡi đỏ rêu lưỡi mỏng mà không nhuận, mạch huyền sác. Vị dương không phấn chấn, hàn thấp và đàm trọc trở trệ, thăng giáng mất chức năng. Đơn thuốc: Khương bán hạ 30g, Phục linh 15g, Sinh khương 5 lát, Khương hoàng liên 4.5g, Ngô thù du 3g, Toàn phúc hoa (bọc) 9g, Đại Giả Thạch (trước) 30g, Xuyên phác 9g, Chỉ thực 9g, Công đinh hương 2.4g. 14 thang. Tái chẩn: Dựa theo ý nghĩa trong Vị không có dương mà lập pháp, sáng dậy buồn nôn, ợ hơi đã thấy cải thiện, đờm ít, sắc mặt dần tươi nhuận. Lưỡi đỏ, rêu lưỡi mỏng, lại dùng phép cũ, để đạt được toàn công. Đơn thuốc: Khương bán hạ 30g, Bạch giới tử 9g, Lai phục tử 9g, Chỉ xác 9g, Cát cánh 6g, Xuyên phác 6g, Khương xuyên liên 4.5g, Ngô thù du 3g, Can khương 2.4g, Quế chi 3g, Trạch tả 9g, Trư linh và Phục linh mỗi vị 9g, Bạch truật 9g. 14 thang. Sau khi dùng thuốc các triệu chứng buồn nôn ợ hơi đều giảm. Sau đó, Nhan lão đã làm rõ và giải đáp những thắc mắc về việc chẩn trị trường hợp này. Lời bàn: Bệnh nhân là nam thanh niên, có các triệu chứng can vị không hòa như miệng khô miệng đắng, ợ hơi ăn kém, nhưng uống thuốc sơ can hòa vị lâu ngày, tình trạng bệnh lại không cải thiện rõ rệt, nên cần xem xét có nguyên nhân khác. Vốn dĩ tỳ vị chủ vận hóa thu nạp, tỳ mất kiện vận, vị mất hòa giáng, chuyển hóa tân dịch mất đi sự bình thường, đàm trọc thủy ẩm dễ sinh ra nhất. Bệnh nhân tự kể cảm thấy buồn nôn khó chịu, vị quản đầy tức có tiếng nước, đầu nặng như bị che lấp, ho khạc đờm bọt trắng, biểu hiện lâm sàng với chứng của Tiểu bán hạ phục linh thang “đột nhiên nôn mửa, tâm hạ đầy tức, cách gian có nước, chóng mặt tim đập nhanh” mô tả rất tương tự, huống chi, bệnh lâu không khỏi, dương hư không còn nghi ngờ, nên cần xem xét là chứng thủy ẩm đình trệ ở vị quản. Phép chữa nên ôn thông vị dương, giáng khí hóa đàm. Dùng Tiểu bán hạ phục linh thang, trong phương Bán hạ, Sinh khương ôn hóa hàn ngưng, giáng nghịch chỉ ẩu; Phục linh ích khí kiện tỳ, thẩm lợi thủy thấp. Trong đó liều lượng Bán hạ, Phục linh đều nên trên 15g, lượng ít thì sợ khó có hiệu quả. Công đinh hương ôn thận trợ dương để sưởi ấm tỳ thổ; Toàn phúc hoa, Đại giả thạch  giáng nghịch hòa vị; Hoàng liên, Ngô thù du hai vị thuốc phối hợp, hàn nhiệt đối xứng, có công năng táo thấp hòa vị, khai uất tán kết. Tái chẩn gia Ngũ linh tán để khu đàm thấp, các vị thuốc phối hợp, trị bệnh cầu bản, ẩm đi thì các triệu chứng ở vị quản cải thiện.

(Nhan Càn Trân)

Thọ Khang Đường chuyên sỉ và lẻ thuốc bắc chính phẩmthuốc bắc loại một tại Sài Gòn.

Tiệm thuốc bắc  Phường Bình Trưng số 94 Vũ Tông Phan, Phường Bình Trưng, TP Hồ Chí Minh 

https://www.facebook.com/thokhangyquan

https://www.youtube.com/@thokhangduong

Similar Posts