Bàn về Đại hoàng, vị thuốc xông pha phá trận

Bàn về Đại hoàng, vị thuốc xông pha phá trận

Đại Hoàng là vị thuốc thông đại tiện mạnh. Người tỳ vị hư hàn, huyết hư, dương hư đại tiện không thông tuyệt đối cấm dùng. Nên được sự tư vấn và chỉ định của thầy thuốc. Không tự ý sự dụng để tránh hậu quả đáng tiếc.

Đại hoàng (大黄) còn có tên là Tướng quân, vị đắng tính lạnh, vào kinh Tỳ, Vị, Đại trường, Tâm bào, Can. Công năng tả hỏa lương huyết, hành ứ thông phủ. “Dược phẩm hóa nghĩa – Hỏa dược” (药品化义•火药) nói: “Đại hoàng khí vị nặng đục, đi thẳng xuống dưới, chỉ chạy mà không giữ, có công năng xông pha phá trận, nên được gọi là Tướng quân. Phàm tà nhập vào phần huyết gây ra ứ trệ, nhiệt độc, khối, dùng nó có thể làm cho đi xuống. Thêm vào trong thuốc hóa ứ, thì có thể tăng tốc lực hóa ứ. Thầy thuốc trị huyết chứng dùng nó có thể lương huyết tán huyết, giáng khí giáng hỏa, nhanh chóng đạt được mục đích cầm máu. Nhan lão trên lâm sàng thường dùng cho nhiều chứng cấp cứu nguy kịch, hiệu quả khá tốt.

[Tâm đắc dùng thuốc]

Rất đắng rất lạnh, sở trường là thông đại tiện. Phàm các bệnh thương hàn ôn bệnh, thực nhiệt kết ở trung hạ nhị tiêu, đại tiện không thông, Nhan lão đa phần dùng Đại hoàng (大黄) để trị, và nói rằng thoái nhiệt mà không lợi đại tiện, không phải là cách chữa của nó.

Đi thẳng vào phần huyết, giỏi thanh trừ ứ nhiệt. Đại hoàng (大黄) là vị thuốc có lực của tướng quân, có thể vào phần huyết, phá mọi huyết ứ; kiêm vào phần khí, dùng ít có thể điều khí; tính vị hàn lương, lại có thể thanh tà nhiệt mà thông tiện. Lâm sàng dùng nó để điều trị các chứng bệnh nan y do ứ nhiệt gây ra, như trúng phong, động kinh, bệnh cuồng, sa sút trí tuệ, huyết chứng…, những bệnh mà theo phép thường chữa lâu không khỏi, nếu gia thêm một vị Đại hoàng (大黄), làm cho phong hỏa được giáng xuống, ứ huyết được phá, phủ khí được thông, tà có đường ra, có công năng dẹp loạn về chính.

3. Ví dụ về phối hợp thuốc theo chứng bệnh

(1) Bệnh trúng phong: Trúng phong cấp tính, thần trí không rõ, đại tiện không thông, Nhan lão cho rằng chứng thuộc phong hỏa đàm giao trở não phủ, nên cấp tốc dùng Đại hoàng (大黄) để “rút củi đáy nồi”, có thể phối hợp với Thiên ma, Toàn yết, Đảm nam tinh, Bạch phụ tử, Hoàng liên, Hoàng cầm, Thạch xương bồ, Viễn chí…

(2) Bệnh động kinh: Dùng cho bệnh động kinh do can hỏa đàm nhiệt gây ra, triệu chứng thấy đột nhiên ngã nhào, không biết gì, tứ chi co quắp, miệng la hét, miệng sùi bọt trắng, phiền táo bất an, hơi thở mạnh thô, miệng đắng và khô, táo bón, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng nhờn, mạch huyền hoạt sác…, thường phối hợp với Thạch xương bồ, Hoàng cầm, Chi tử, Long đởm thảo, Bán hạ, Đảm nam tinh, Phục linh.

(3) Bệnh cuồng: Dùng cho bệnh cuồng do đàm hỏa kèm ứ gây ra, triệu chứng thấy ít ngủ dễ kinh sợ, nghi ngờ nảy sinh, ảo thị ảo thính, sắc mặt u ám, đại tiện táo kết, lưỡi xanh tím, hoặc có ban ứ, rêu lưỡi mỏng, mạch tế sáp…, thường dùng cùng với Đào nhân, Thủy điệt…, như Đào hạch thừa khí thang, Để đáng thang.

(4) Sa sút trí tuệ: Dùng cho chứng sa sút trí tuệ do đàm nhiệt trở ở não khiếu gây ra, triệu chứng thấy tâm tình phiền táo, nói năng lảm nhảm, hoặc đa nghi hay lo nghĩ, đau đầu mất ngủ, thậm chí khóc cười vô thường, tức giận không muốn sống, đại tiện táo kết, rêu lưỡi vàng nhờn hoặc trắng nhờn, mạch huyền hoạt, thường dùng cùng với Hoàng cầm, Hoàng liên, Hoàng bá, Sơn chi…

(5) Huyết chứng: Nhan lão nói “Đại hoàng vào huyết có thể lương huyết hóa đàm, trừ cũ sinh mới” , dùng cho huyết chứng do khí hỏa thượng nhiễu, huyết nhiệt vọng hành gây ra rất hiệu quả. Lâm sàng phối hợp với Sinh bồ hoàng, Bạch cập cùng nghiền thành bột cầm máu, điều trị xuất huyết đường tiêu hóa trên; phối hợp với Giáng hương, Tử tuyết đan trị các chứng ho ra máu, chảy máu cam…; phụ thêm dùng ngoài bột Sinh đại hoàng với lòng trắng trứng gà đắp huyệt Dũng tuyền, dẫn hỏa đi xuống, bẻ gãy khí thế của nó.

(6) Quan cách: “Cảnh Nhạc toàn thư – Bản thảo chính” (景岳全书•本草正) nói về Đại hoàng (大黄): “dẫn đàm huyết, thông thủy đạo, thoái thấp nhiệt.”. Nhan lão thường dùng Sinh đại hoàng, Lục nguyệt tuyết mỗi vị 30g, sắc thành 100~150ml thụt giữ, mỗi ngày 1 lần, điều trị người suy thận, có hiệu quả nhất định.

(7) Táo bón: “Cổ kim y giám” (古今医鉴) quyển thứ hai gọi Đại hoàng (大黄) là “đoạt thổ tướng quân, trục trệ thông ứ, hạ nhiệt kết ở vị trường” , là vị thuốc chủ yếu hàng đầu để thông phủ. Người bị nhiệt bí, gia Chỉ xác, Xuyên phác, Lai phục tử, Sơn chi, Mang tiêu; người bị hàn bí, thì phối hợp với Phụ tử để ôn thông, hoàn toàn nằm ở việc gia giảm linh hoạt.

(8) Sốt cao do nhiễm trùng: Nhan lão nói “Đại hoàng trừ nhiệt có lực rút củi đáy nồi” , thường dùng Đại hoàng (大黄) cùng với Huyền sâm, Mạch đông, Sinh địa; Thạch cao cùng với Tây dương sâm, nước ép Vi hành tươi, nước ép lê tuyết để trừ nhiệt. Nhan lão nói công của nó có ba: cấp hạ để bảo vệ âm tồn dương, cấp hạ để sơ thông khí cơ, cấp hạ để thanh trừ nhiệt, độc, ứ.

4. Cách dùng và liều lượng 

(1) Trong ngoài cùng chữa, khéo dùng đơn phương: Trị ho ra máu dùng Đại hoàng (大黄) nghiền bột, cùng lòng trắng trứng gà đắp hai bên huyệt Thái dương để thanh huyết nhiệt; điều trị viêm tụy cấp, dùng Sinh đại hoàng liều lượng lớn, một lần là 10g, mỗi ngày ít nhất dùng 30g, còn có thể tham khảo tình trạng bệnh mà tăng liều, lấy mức độ vàng nhờn của rêu lưỡi và số lần đại tiện làm tiêu chuẩn điều chỉnh liều lượng thuốc.

(2) Lưu ý khi sử dụng: Vị thuốc này là loại công hạ mạnh, dễ làm tổn thương chính khí, nếu không phải thực chứng, không nên dùng bừa bãi; vị thuốc này khổ hàn, dễ làm tổn thương vị khí, người tỳ vị hư nhược nên thận trọng khi dùng: tính của nó trầm giáng, và giỏi hoạt huyết khu ứ, nên phụ nữ có thai, kỳ kinh nguyệt, kỳ cho con bú nên kiêng dùng. (3) Liều lượng: Sắc nước uống, 5~15g. Để thông tiện thì cho vào sau, để hoạt huyết thì tẩm rượu sao.

[Ví dụ bệnh án] Đái mỗ , nam, 42 tuổi. Tiền sử bệnh lao đã hơn hai mươi năm, nhiều lần ho ra máu tái phát, lần này do ho ra máu lượng lớn một lần nữa mà nhập viện. Sau khi nhập viện, cứ cách 2~3 giờ lại ho ra máu một lần, mỗi lần 40~200ml, trong 3 ngày ước tính đạt khoảng 3000ml, đã qua các biện pháp cầm máu đều không hiệu quả, bệnh viện lồng ngực hội chẩn cho rằng phương pháp điều trị bảo tồn khó khăn, chủ trương phẫu thuật, bèn mời Trung y hội chẩn. Sơ chẩn: Bệnh nhân ngồi dựa vào giường, hơi thở gấp tiếng mạnh, lưỡi đỏ rêu lưỡi mỏng, mạch tế hoạt hơi sác. Huyết chứng do nhiệt ứ giao trở, bức huyết vọng hành, cần cấp tốc thanh dinh lương huyết mà làm yên huyết lạc. Đơn thuốc: (1) Quảng tê giác (sắc trước) 12g, Tiên sinh địa 60g, Đan bì 9g, Xích thược 15g, Đại hoàng 6g, bột Bạch cập, bột Tam thất mỗi vị 3g (hòa đều uống riêng). (2) Tử tuyết đan 1.5g (chia 2 lần uống). (3) Bột Phụ tử, nước gừng điều hòa đắp hai huyệt Dũng tuyền ở bàn chân; bột Sinh đại hoàng, lòng trắng trứng gà điều hòa đắp hai huyệt Thái dương. Tái chẩn: Ho ra máu cả ngụm đã ngừng, nhưng vẫn có lượng nhỏ ho ra máu, trước khi ho ra máu phiền táo, cởi áo lộ bụng, thích mát mẻ, nhưng chi dưới thích ấm, lưỡi đỏ rêu lưỡi xám đen, mạch tế hoãn mà sáp. Khí âm lưỡng khuy, âm không liễm được dương, khí ứ chưa hóa, dự định giáng khí ninh vinh, dục âm hóa ứ. Đơn thuốc: Sinh địa 12g, Mạch đông 9g, Ngũ vị tử 4.5g, Bắc sa sâm 18g, Đan bì 9g, Thạch hộc 12g, Đào nhân 12g, Lô căn 30g, Đông qua tử 15g, Hoàng kỳ 15g, Sinh ý dĩ nhân 12g, Bạch thược 12g, Giáng hương 2.4g. Sau khi dùng thuốc, mạch tĩnh người mát, ho ra máu liền ngừng. Lời bàn: Ca ho ra máu lượng lớn này, trước tiên theo tôn chỉ lương huyết ninh lạc, giáng hỏa quy nguyên, dùng Tê giác địa hoàng thang gia Đại hoàng (大黄), kiêm phương pháp đắp ngoài mà thấy hiệu quả, nhưng sau khi mất máu lượng lớn, khí huyết đã suy, xuất hiện các hiện tượng dương vượt lên như chi dưới lạnh, lưỡi đỏ mà xám, mạch tế sáp cùng với cởi áo lộ bụng, phiền táo, âm dương đều hao tổn, chứng thuộc hư trung hiệp thực của ứ nhiệt chưa hóa, nên dùng Sinh mạch tán gia Hoàng kỳ để phòng thoát; dùng Thiên kim vi hành thang để trừ ứ thanh hỏa; lại dùng Giáng hương để giáng khí nghịch lên trên, khu ứ cầm máu, đã đạt được hiệu quả điều trị hài lòng. Nhan lão chỉ ra rằng các y gia nhiều đời điều trị huyết chứng, đều thích dùng Đại hoàng (大黄). Đại hoàng (大黄) giáng hỏa hóa ứ, dùng cho xuất huyết cấp tính lượng lớn rất hiệu quả. Nhưng những bệnh nhân bệnh kéo dài không khỏi hoặc người già yếu, dùng qua Đại hoàng (大黄) vẫn không hiệu quả, thì dùng Giáng hương hợp hơn, Mâu Trọng Thuần trong “Tiên tỉnh trai y học quảng bút ký” (先醒斋医学广笔记) quyển thứ hai viết: “Phàm trị thổ huyết, nên hành huyết không nên chỉ huyết, nên bổ can không nên phạt can, nên giáng khí không nên giáng hỏa.” (凡治吐血,宜行血不宜止血,宜补肝不宜伐肝,宜降气不宜降火). Giáng hương vừa có thể giáng khí, vừa có thể hành huyết, dùng hợp lý, quả thực có hiệu quả. (Trần Lệ Quyên)

Thọ Khang Đường chuyên sỉ và lẻ thuốc bắc chính phẩmthuốc bắc loại một tại Sài Gòn.

Tiệm thuốc bắc  Phường Bình Trưng số 94 Vũ Tông Phan, Phường Bình Trưng, TP Hồ Chí Minh 

https://www.facebook.com/thokhangyquan

https://www.youtube.com/@thokhangduong

Similar Posts