Hải tảo là sản phẩm tốt vừa ăn vừa làm thuốc, là thuyền bè tiêu đàm hóa ứ
Hải tảo (海藻) vị mặn, tính hàn, quy kinh Phế, Tỳ, Thận, có công hiệu tiêu đàm nhuyễn kiên, lợi thủy tiêu thũng. “Bản thảo cương mục • Thảo bộ” quyển mười chín viết: “Hải tảo mặn có thể nhuận hạ, hàn có thể tả nhiệt dẫn thủy, do đó có thể tiêu bướu cổ, kết hạch, kiên tụ, và trừ phù thũng, cước khí, lưu ẩm, đàm khí thấp nhiệt, làm cho tà khí tự ra ngoài qua đường tiểu tiện.” Hải tảo cũng là thực phẩm tốt, như “Bản thảo bị yếu” quyển một nói: “Mọc ở Đông Hải, có hai loại lá to và đuôi ngựa, cũng làm rau biển ăn, rửa sạch nước mặn rồi dùng.” Thầy Nhan cho rằng, hải tảo mặn đắng mà hàn, mặn có thể nhuyễn kiên, đắng có thể tả kết, hàn có thể địch nhiệt, giỏi hóa đàm nhiệt, trừ ứ kết, thanh đàm nhiệt, và tính của nó nhuận hạ, có thể làm cho các uất kết của đàm nhiệt ứ hỏa từ dưới mà tiết ra, thường dùng công hiệu hóa đàm nhuyễn kiên, hoạt huyết hóa ứ của nó, áp dụng rộng rãi cho các bệnh chứng đàm ứ kết.
[Kinh nghiệm dùng thuốc]
- Vị thuốc quan trọng để tán kết: Hải tảo vị mặn, mặn có thể nhuyễn kiên tán kết, phàm các chứng đàm kết như loa lịch, bướu cổ, kết hạch, v.v., thầy Nhan quen dùng hải tảo để trị.
- Thanh nhiệt hoạt huyết: Đỗ Văn Tiếp đời Minh trong “Dược giám • Tân khắc dược giám” luận về hải tảo: “Phàm dinh khí không thuận, ung nhọt bên ngoài, cứng không vỡ, dựa vào vị này có thể tiêu.” Thầy Nhan cho rằng hải tảo tính hàn, có công hiệu hoạt huyết tiêu ung nhất định, do đó quen dùng cho các bệnh tim mạch, mạch máu não thuộc ứ nhiệt, có hiệu quả nhất định.
- Ví dụ phối hợp thuốc theo chứng (1) Trúng phong: Thầy Nhan điều trị trúng phong do đàm trọc trở lạc, não lạc bị tổn thương, khí thanh linh không thể nối với tạng khí, liệt nửa người, lưỡi cứng nói khó, miệng mắt méo xệch, đầu váng đầu đau, rêu lưỡi nhớt hoặc khô vàng mà dày, mạch huyền hoặc huyền tế, v.v. Thường phối hợp với các vị thuốc hoạt huyết thông lạc như sinh bồ hoàng, thủy diệt, cát căn, thạch xương bồ, như phương thuốc kinh nghiệm của thầy Nhan là Não ngạnh linh. (2) Chóng mặt: Điều trị chóng mặt do đàm nhiệt nội trở, thanh dương không thăng, ngực đầy bĩ , ho nhiều đờm, đại tiện táo bón, lưỡi đỏ rêu vàng nhớt, mạch huyền, thầy Nhan quen dùng hải tảo phối với các vị thuốc hóa đàm bình can như pháp bán hạ, thiên ma, câu đằng, xa tiền thảo. (3) Tăng mỡ máu: Điều trị tăng mỡ máu thuộc chứng vận hóa thất thường, đàm ứ kết, thầy Nhan thường dùng hải tảo phối với các vị thuốc trừ ứ giáng trọc tiêu mỡ như thương truật, bạch truật, sơn tra, quyết minh tử, hổ trượng, trạch tả. (4) Bế kinh: Bế kinh thuộc chứng đàm ứ kết, thầy Nhan đa phần dùng Thiểu phúc trục ứ thang để trị, và thêm hải tảo, côn bố để hóa ứ thông kinh, tăng hiệu quả rõ rệt.
- Lưu ý khi sử dụng và liều lượng (1) Lưu ý khi sử dụng: Phản cam thảo. Người tỳ vị hư hàn uất thấp kiêng dùng. (2) Liều lượng: Sắc nước uống, 9~15g.
[Ví dụ bệnh án]
Bệnh nhân Lục, nữ, 61 tuổi. Hai ba năm nay, mỗi khi cảm thấy trong lòng phiền muộn, ra mồ hôi, nói nhiều mặt cũng đỏ, mồ hôi ướt, ban đêm nóng từng cơn, ra mồ hôi như hấp, chữa khắp nơi không hiệu quả. Khi khám lần đầu, ngoài triệu chứng chính, còn khó ngủ, ngực sườn đau âm ỉ, không thích giao tiếp với người khác, đầu đau, hồi hộp, lưỡi tím rêu nhớt, mạch tiểu sác. Hai kinh Tâm Can ứ nhiệt giao tranh, dinh vệ bất hòa, pháp trị nên sơ can thanh tâm, hóa ứ tả nhiệt.
Toa thuốc: Sài hồ 9g, sơn chi 9g, xuyên liên 2.4g, sinh địa 12g, đương quy 9g, đào nhân 9g, hồng hoa 9g, xích thược 9g, chỉ xác 6g, cát cánh 6g, ngưu tất 6g, xuyên khung 9g, thanh bì 6g, nga truật 9g, hải tảo 9g. 14 thang. Sau khi uống thuốc, các chứng nóng phiền, mồ hôi như hấp đều hết, dùng lại toa cũ 14 thang, tự cảm thấy người nhẹ nhàng nhanh nhẹn, nỗi khổ kéo dài ba năm đã khỏi hẳn.
Lời bàn: Mồ hôi của dương, lấy mưa của trời đất để đặt tên, thầy thuốc đa phần dùng pháp thanh, pháp bổ, pháp nhiếp nạp, pháp cố mật để trị, khó có hiệu quả đa phần là do biện chứng không rõ. Hội chứng mãn kinh trước và sau khi mãn kinh ở phụ nữ, ra mồ hôi, phiền muộn, có liên quan mật thiết đến tâm trạng. Giữ vững tôn chỉ điều hòa khí huyết, trị bằng cách sơ can hóa ứ, tuyên đạo uất kết. Dùng Huyết phủ trục ứ thang của Vương Thanh Nhậm để sơ can hóa ứ, điều hòa khí huyết; hoàng liên thanh tâm tả nhiệt; do đàm nhiệt giao kết ngang trở ở tâm hung, càng trở càng thực, càng thực càng trở, bổ thì làm thực cái đã thực, thanh thì ứ càng khó hóa, do đó phải mượn hàn có thể kiếp nhiệt, đắng có thể tả thực, mặn có thể nhuyễn kiên, mà hải tảo có đủ ba thứ này, có thể hành kinh lạc làm hướng đạo, và có thể dẫn hỏa quy nguyên, cùng với xuyên liên tương tá, có hiệu quả tả nam bổ bắc; sơn chi, thanh bì, nga truật giỏi phát mộc uất, và đắng có thể tả thực. Trong phương thuốc không có một vị thuốc cầm mồ hôi nào, nhưng lại có cơ chế sơ tiết, không cầm mồ hôi mà mồ hôi tự cầm. (Dương Dương, Nhan Quỳnh Chi)
Thọ Khang Đường chuyên sỉ và lẻ thuốc bắc chính phẩm, thuốc bắc loại một tại Sài Gòn.
Tiệm thuốc bắc Phường Bình Trưng số 94 Vũ Tông Phan, Phường Bình Trưng, TP Hồ Chí Minh