Nghiên Cứu Sâu Kinh Điển, Biến Xưa Thành Nay

Y học truyền thống có tính kế thừa, không có kế thừa thì không có phát huy, và việc học tốt các tác phẩm kinh điển là công phu cơ bản bắt buộc. Thầy đã nhiều lần nhấn mạnh: “Kinh điển là nền tảng, thầy truyền là mấu chốt, thực tiễn là gốc rễ” (经典是基础,师传是关键,实践是根本), lời dạy dỗ ân cần, dụng tâm sâu sắc.

Nền tảng của Trung y nằm ở các tác phẩm kinh điển, sự phát triển của y học sau này đều bắt nguồn từ kinh điển. Nó tiết lộ quy luật nội tại của Trung y, chỉ cho người ta quy củ khuôn phép, và đã được thực tiễn kiểm nghiệm, người xưa cho rằng nó như mặt trời mặt trăng vận hành trên trời, sông ngòi chảy trên đất. Ví dụ, chúng ta nói về sinh lý, bệnh lý của con người không thể tách rời âm dương; nói về sự phát triển, biến hóa của bệnh tật không thoát khỏi lục kinh, do đó kinh điển được người đời sau tôn làm tông chỉ. Nhưng ý nghĩa của kinh văn không phải là bất biến, các nhà y học ở các thời kỳ khác nhau đều có thể diễn giải cho nó ý nghĩa mới. Ví dụ, lục kinh trong «Thương Hàn Luận» (伤寒论) khác với lục kinh chủ chứng trong «Tố Vấn • Nhiệt Luận» (素问•热论), điều này cho thấy Trọng Cảnh có sự ngộ giải khác về ý nghĩa của lục kinh, đó là một minh chứng hùng hồn. Trong cái bất biến có cái biến đổi, trong cái biến đổi có cái bất biến, người học cần biết quyền biến thông đạt.

Trong thời đại khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão ngày nay, chúng ta nghiên cứu kinh điển không phải để hoài niệm về quá khứ, mà là để tìm kiếm cội nguồn của Trung y, từ đó nhận được sự khai sáng để giải quyết những vấn đề khó khăn của ngày nay. Ví dụ, thầy dựa vào thuyết “Gan khai khiếu ra mắt” (肝开窍于目) trong «Nội Kinh» (内经) để dùng các vị thuốc dưỡng gan sáng mắt điều trị teo thần kinh thị giác, bệnh lý đáy mắt; dựa vào câu trong «Thần Nông Bản Thảo Kinh» (神农本草经) rằng 菴阊子 (am trương tử) chủ trị “ngũ tạng ứ huyết, phúc trung thủy khí” (五脏瘀血,腹中水气) để dùng nó điều trị cổ trướng do xơ gan; dựa vào câu trong «Thần Nông Bản Thảo Kinh» (神农本草经) rằng trạch tả (泽泻) “uống lâu tai mắt tinh tường… kéo dài tuổi thọ… thân thể nhẹ nhàng” (久服耳目聪明•••••延年•••轻身) để dùng nó giảm mỡ giảm cân, làm chậm quá trình lão hóa, v.v.

«Thần Nông Bản Thảo Kinh» (神农本草经) cô đọng trí tuệ của người xưa trong việc nhận biết dược tính, là cơ sở để Trọng Cảnh lập phương dùng thuốc. Đào Hoằng Cảnh (陶弘景) nói: “Sách này nên cùng loại với «Tố Vấn» (素问), chỉ là người sau thêm nhiều sửa đổi mà thôi.” («Bản Thảo Kinh Tập Chú» – 本草经集注). Do đó, những người nghiên cứu bản thảo sau này đều coi nó như khuôn vàng thước ngọc. Nhưng học «Thần Nông Bản Thảo Kinh» (神农本草经), nếu không chuyên tâm nghiên cứu, trải nghiệm nhiều lần thì khó mà hiểu được sự huyền diệu của nó. Ví dụ, việc lập phương dùng thuốc cho chứng nhiệt tý (熱痹), «Thần Nông Bản Thảo Kinh» (神农本草经) đã mang lại sự khai sáng. «Tố Vấn • Tý Luận» (素问•痹论) cho rằng “phong hàn thấp ba khí cùng đến, hợp lại thành tý” (风寒湿三气杂至,合而为痹). Dựa vào đây suy ra, ôn tán, ôn thông, ôn hóa nên là đại pháp. «Thần Nông Bản Thảo Kinh» (神农本草经) ghi chép, địa cốt bì (地骨皮) vị đắng, tính hàn và thiên đông (天冬) đều chủ trị “chu tý phong thấp, uống lâu gân cốt vững chắc” (周痹风湿,久服坚筋骨), một vị trị “các chứng phong thấp thiên tý” (诸风湿偏痹). Thạch hộc (石斛) vị ngọt tính bình, có thể “trừ tý hạ khí” (除痹下气). Ấy là vì phong có thể hóa nhiệt, thấp có thể hóa táo, vị đắng để làm vững chắc, vị hàn để thanh nhiệt, vị ngọt để nhuận, không có vị nào là không thể dùng trong chứng trị nhiệt tý. Không chỉ vậy, từ thạch (磁石) vị cay tính hàn, «Thần Nông Bản Thảo Kinh» (神农本草经) cũng nói nó chủ trị “chu tý” (周痹). Chu tý là gì? «Linh Khu • Chu Tý» (灵枢•周痹) viết: “Chu tý là bệnh ở trong huyết mạch, theo mạch đi lên, theo mạch đi xuống, không thể sang trái phải, ở đâu thì ở đó.” (周痹者,在于血脉之中,随脉以上,随脉以下,不能左右,各当其所). Ấy là tà khí ở trong huyết mạch, giao tranh với chính khí mà gây ra. Vì nó theo huyết mạch đi khắp cơ thể, nên gọi là chu tý. Từ thạch (磁石) vị cay thông khớp, tính hàn thanh nhiệt, lại có thể làm vững gân cốt, nên có thể dùng, và chứng chu tý mà nó chủ trị chắc chắn thuộc nhiệt tý. Tuy nhiên, trên cơ sở này, thầy Chu đã có sự phát triển mới, thầy dùng hàn thủy thạch (寒水石) vị mặn tính hàn để trị nhiệt tý, và cho rằng công dụng của nó hơn thạch cao (石膏) một bậc. Bởi vì thạch cao có thể thanh khí mà không thể lương dinh, hàn thủy thạch có thể thanh nhiệt trong huyết mạch, khớp với ý chỉ “tà ở trong huyết mạch” (邪在血脉之中) của «Linh Khu» (灵枢), đây thực sự là một kiến giải độc đáo, một sự sáng tạo. Trong phương thuốc tự nghĩ của mình là “Ô Quế Tri Mẫu Thang” (乌桂知母汤), thầy dùng hàn thủy thạch (寒水石) phối hợp với tri mẫu (知母), kết hợp với quế chi (桂枝), chế xuyên ô (制川乌), chế thảo ô (制草乌) để trị nhiệt tý, đạt được hiệu quả thanh cả khí và dinh, tuyên tý thông lạc. Tại sao lại phải phối hợp vị mặn hàn với vị cay ôn? Vì chứng tý phần nhiều là tà khí hỗn tạp, trong nhiệt có hàn chưa hóa hết, trong lạc có nhiệt ẩn chưa thoát ra, chính là lúc nên dùng cả hàn và ôn, điều hòa cả hai. Còn khi lâm sàng, làm thế nào để xem xét lượng hàn nhiệt nhiều ít, sự tiến triển hay thoái lui của bệnh chứng, cân nhắc liều lượng thuốc hàn, ôn nặng nhẹ ra sao, lại phụ thuộc vào việc người thầy thuốc xem xét tình hình, tùy cơ ứng biến.

Từ cay ôn đến đắng hàn, ngọt hàn, cay hàn, rồi đến mặn hàn, lại còn dùng cả mặn hàn và cay ôn cùng lúc, thầy Chu đã phát triển và làm phong phú thêm chứng trị của chứng tý, mang lại nhiều khai sáng cho hậu học. Cho đến ngày nay, kinh điển vẫn như nguồn nước sống, cung cấp nguồn cảm hứng vô tận cho các thầy thuốc sáng tạo, thể hiện sức sống mạnh mẽ.

Ở phần sau xin giới thiệu về Biện chứng biện bệnh mở ra con đường mới trong Y Học Cổ Truyền.

Thọ Khang Đường chuyên sỉ và lẻ thuốc bắc chính phẩmthuốc bắc loại một tại Sài Gòn.

Tiệm thuốc bắc Quận 2 số 94 Vũ Tông Phan, Phường An Phú, Quận 2

https://www.facebook.com/thokhangyquan

https://www.youtube.com/@thokhangduong

Similar Posts