Âm hư sinh nội nhiệt, dương hư sinh hàn
Trong cơ thể con người có hai loại năng lượng: âm và dương. Hai loại năng lượng này phải cân bằng thì cơ thể mới khỏe mạnh. Nếu năng lượng âm trong cơ thể nhiều hơn, người đó sẽ cảm thấy lạnh; nếu năng lượng dương nhiều hơn, người đó sẽ cảm thấy nóng bức. “Hoàng Đế Nội Kinh” nói: “Dương thịnh thì nhiệt, âm thịnh thì hàn.” Vì vậy, điều hòa âm dương trước hết phải bắt đầu từ hàn nhiệt, hàn nhiệt cân bằng thì âm dương cũng cân bằng.
Một số người thường thích nói về dưỡng sinh một cách thần bí, nói những điều khiến người dân bình thường không hiểu được. Thực ra, dưỡng sinh là một việc rất đơn giản, chỉ cần bạn là người biết nóng lạnh, bạn sẽ biết cách dưỡng sinh. Trời lạnh thì mặc thêm áo, trời nóng thì cởi bớt áo, đó chính là dưỡng sinh, cũng chính là điều hòa âm dương, âm dương hài hòa thì sẽ không sinh bệnh. Tuy nhiên, nếu bạn không biết nóng lạnh, để năng lượng âm trong tự nhiên xâm nhập vào cơ thể, sẽ phá vỡ sự cân bằng âm dương trong cơ thể. Y học cổ truyền gọi năng lượng âm xâm nhập vào cơ thể là “hàn tà”, còn năng lượng dương xâm nhập vào cơ thể là “nhiệt tà”. Nếu cơ thể bị “hàn tà” và “nhiệt tà” xâm nhập, phải làm sao? Cách giải quyết cũng rất đơn giản, đó là dùng năng lượng nhiệt trong tự nhiên để đẩy hàn tà ra khỏi cơ thể, dùng năng lượng hàn trong tự nhiên để loại bỏ nhiệt tà. Hàn tà và nhiệt tà rời khỏi cơ thể, âm dương trong cơ thể sẽ cân bằng.
Y học cổ truyền tuy uyên thâm, nhưng cuối cùng cũng quy về hai chữ: một là hàn (lạnh), một là nhiệt (nóng). Hàn là gì? Hàn là năng lượng âm trong cơ thể tăng cao, khiến âm dương mất cân bằng. Nhiệt là gì? Nhiệt là năng lượng dương trong cơ thể tăng cao, khiến âm dương mất cân bằng. Một âm một dương gọi là đạo, thiên âm thiên dương gọi là bệnh. Trong y học cổ truyền, trạng thái khỏe mạnh là âm dương cân bằng, không nóng không lạnh. Trạng thái không khỏe mạnh có hai loại: một là thiên âm mà hàn, một là thiên dương mà nhiệt. Vì vậy, dưỡng sinh theo y học cổ truyền, nói cho cùng, là điều chỉnh trạng thái hàn nhiệt của cơ thể: bạn nóng, tôi sẽ làm bạn lạnh đi một chút; bạn lạnh, tôi sẽ làm bạn nóng lên một chút.
Có lẽ, có người sẽ nói, ông nói y học cổ truyền đơn giản quá rồi, có đúng vậy không? Hoàn toàn đúng, thực sự là như vậy. Mọi người đều biết, hàng nghìn năm qua, y học cổ truyền tồn tại hai phái lớn: một là phái ôn dương, một là phái thanh lương. Phái ôn dương chú trọng vào chữ “dương”; phái thanh lương chú trọng vào chữ “âm”. Phái ôn dương cho rằng “bách bệnh hàn vi tiên”, hàn là nguồn gốc của bệnh tật, trên cơ sở đó, phái ôn dương tìm mọi cách điều chỉnh trạng thái hàn của cơ thể, sử dụng một số loại thuốc ôn dương, ví dụ như can khương, phụ tử, v.v., để chấn hưng dương khí, khiến cơ thể đạt đến trạng thái âm dương cân bằng.
Phái thanh lương thì cho rằng nhiệt là nguyên nhân gây ra nhiều bệnh tật, nhiệt sẽ làm tổn thương tân dịch của cơ thể, để bảo vệ tân dịch, họ sáng lập ra phương pháp thanh nhiệt giải độc, sử dụng một số loại thuốc mát như thạch cao, đại thanh diệp, đại hoàng, v.v., để điều chỉnh trạng thái nhiệt của cơ thể. Tuy những lý luận này ban đầu chủ yếu bắt nguồn từ lĩnh vực điều trị bệnh ngoại cảm, nhưng cũng dần ảnh hưởng đến việc điều trị bệnh nội thương.
Không khó để thấy, y học cổ truyền thực ra giống như một đồ hình thái cực, phái ôn dương vì chữ “ôn” mà trở thành dương trong đồ hình thái cực; phái thanh lương vì chữ “lương” mà trở thành âm trong đồ hình thái cực. Trong lịch sử y học cổ truyền Trung Quốc, hai phái này không ngừng tranh luận, cũng không ngừng tiến bộ trong tranh luận, họ lần lượt từ hai mặt làm phong phú thêm lý luận của y học cổ truyền…
Tôi đã từng viết về rất nhiều danh y cổ đại, cảm nhận sâu sắc nhất chính là: mặc dù về mặt lý luận, những danh y này luôn thuộc về một trường phái nhất định, nhưng một khi gặp bệnh nhân, họ lại ra tay rất linh hoạt. Khi gặp bệnh nhân có chứng hàn, họ nhất định sẽ kê những vị thuốc có tính ôn ấm; nếu gặp bệnh nhân có chứng nhiệt, họ cũng nhất định sẽ kê những vị thuốc có tính thanh lương, vì vậy họ mới trở thành những thầy thuốc cao minh. Bởi lẽ một âm một dương này chính là căn bản của Trung y chúng ta, chỉ khi phân biệt rõ âm dương, mới có thể “khắc địch chế thắng”.
Trung y rất vĩ đại, sở dĩ vĩ đại là bởi vì có âm dương; Trung y rất thông minh, sở dĩ thông minh là bởi vì có sự phân biệt hàn nhiệt. Mọi người đều biết, Tây y khám bệnh trước tiên phải làm xét nghiệm, xét nghiệm có tác dụng gì? Xét nghiệm là để tìm vi khuẩn và virus. Tuy nhiên, virus trên thế giới có đến hàng nghìn hàng vạn loại, hơn nữa còn không ngừng biến dị, thế là Tây y bèn mượn sự phát triển của khoa học kỹ thuật, phát minh ra đủ loại thiết bị kiểm tra, truy lùng virus khắp nơi trên thế giới. Nhưng Trung y không làm như vậy, trong quan niệm của Trung y, cho dù có bao nhiêu virus đi chăng nữa, chỉ cần con người bị bệnh, cũng không ngoài hai trạng thái: một là hàn, hai là nhiệt. Chỉ cần làm rõ cơ thể bệnh nhân đang ở trạng thái nào, sau đó tiến hành điều lý là được. Vì vậy, khi bạn đi khám Trung y, Trung y không có bất kỳ thiết bị nào, họ thông qua vọng, văn, vấn, thiết để chẩn đoán, mục đích chính là phán đoán cơ thể bạn là hàn hay là nhiệt. Dưới đây, tôi sẽ lấy hai ví dụ để minh họa.
Có một lần, tôi đến nhà một người quen để làm khách, vừa nói chuyện được vài câu, đã nghe thấy tiếng ho trên lầu, sau đó con trai của ông ấy vừa ho vừa đi xuống lầu. Cậu thanh niên này đang học trung học phổ thông, dáng người cao gầy, vừa ho vừa gật đầu chào tôi.
Tôi rất ngạc nhiên, hỏi: “Sao ho dữ vậy? Uống thuốc chưa?”
Người bạn nói với tôi: “Thuốc nên uống đều đã uống rồi, chỉ có cái ho này, lúc nào cũng không khỏi. đã hơn mười ngày rồi.”
Tôi biết vợ của người này làm về thuốc tây (bà ấy xuất thân từ chuyên ngành), vì vậy tôi hỏi bà ấy đã uống những loại thuốc gì. Câu trả lời là: Uống Amoxicillin đã lâu rồi, bây giờ không dám uống gì nữa. Lúc này, cả nhà đều nhìn tôi, tôi nghĩ bụng, dù sao cũng vừa kịp lúc, cứ xem thử xem sao, thế là tôi lấy giấy bút, hỏi cậu thanh niên: “Có chảy nước mũi không? Màu gì?”
Cậu thanh niên trả lời: “Có, trong như nước.”
Tôi chẩn đoán sơ qua một chút, trong lòng đã có phán đoán, đây là chứng hàn, tức là năng lượng âm ở một vị trí nào đó trong cơ thể cậu ấy nhiều hơn, đang ở trạng thái lạnh. Tôi phán đoán ra sao? Chủ yếu là thông qua nước mũi. Nếu nước mũi trong như nước, điều này chứng tỏ trong cơ thể có hàn, người ta thường nói “lạnh đến chảy nước mũi trong” chính là đạo lý này. Nếu nước mũi màu vàng, lại đặc sệt, điều này chứng tỏ trong cơ thể có nhiệt. Nhưng cái hàn của cậu thanh niên này ở đâu? Ở dạ dày, gan hay phổi? Thông qua tiếng ho của cậu ấy, tôi phán đoán hàn ở phổi. Đạo lý ở đâu? “Y học tam tự kinh” nói “phế như chung, chàng tắc minh”, ý nói, phổi của người giống như một cái chuông treo, ngoại tà khẽ chạm vào, nó sẽ kêu lên, cái âm thanh kêu đó chính là ho và hen suyễn. Biết trong cơ thể có hàn, lại biết hàn ở phổi, điều trị sẽ đơn giản, lúc này, chỉ cần dùng một chút thuốc ấm nóng tuyên phế để đưa hàn tà ra là được.
Thế là tôi kê đơn thuốc, đại khái là: Phòng phong ba gram, kinh giới ba gram, tử uyển sáu gram, khoản đông hoa sáu gram, bạch tiền sáu gram, bách bộ ba gram. Mọi người xem, phòng phong trong phương thuốc này là tính ấm, kinh giới là tính ấm, tử uyển là tính ấm, khoản đông hoa là tính ấm, bạch tiền là tính ấm, bách bộ là tính ấm, tư duy của Trung y đơn giản như vậy—dùng những thứ ấm nóng trong tự nhiên để xua tan cái lạnh trong cơ thể.
Sau đó tôi đặc biệt dặn họ khi sắc thuốc hãy cho thêm vỏ quýt tươi. Tại sao lại dùng vỏ quýt tươi? Vì vỏ quýt có vị cay. Khi bóc vỏ quýt, dùng tay bóp mạnh, nước trong vỏ sẽ bắn ra một mùi rất hăng, nếu bắn vào mắt sẽ rất khó chịu. Tôi dùng vỏ quýt ở đây chính là mượn vị cay của nó để tán hàn khí từ phổi, hơn nữa vỏ quýt cũng có tính ấm.
Không ngờ người nhà họ rất vội vàng, nói: “Chúng tôi đi mua thuốc ngay bây giờ đây!”
Thế là cả nhà lập tức lái xe đến hiệu thuốc. Khi về sắc thuốc, họ còn cố ý cho tôi xem quả quýt to như thế nào, và sắc thuốc ngay trước mặt tôi.
Ngoài ra, thuốc chữa bệnh kinh phế (đặc biệt là thuốc tuyên phế giải biểu) thường phải ngâm một chút cho ngấm, và thời gian sắc thuốc phải ngắn, thông thường chỉ cần 10 phút, nếu sắc lâu quá thì thuốc sẽ đi xuống trung hạ tiêu. Đây cũng là một bí quyết.
Đứa trẻ uống thuốc xong, vì tôi cũng bận nên đã về. Đến ngày thứ ba, tôi đang ăn, lúc đó đã muộn và tôi cũng rất mệt mỏi, đột nhiên nhận được một cuộc điện thoại, là lãnh người bạn gọi đến. Anh ấy nói sau khi đứa trẻ uống thuốc một ngày thì cơn ho đã giảm hẳn, ngày thứ hai thì cơ bản đã khỏi bệnh, còn nói: “Xem ra thuốc còn lại không cần uống nữa, để dành lần sau ho lại uống.” Tôi vội vàng giải thích, lần sau ho nhất định phải kê đơn thuốc mới, vì lần này là do trong người cháu có hàn, lần sau thì chưa chắc đã như vậy. Chúng ta phải điều trị theo tình trạng hàn nhiệt của cơ thể, nếu không sẽ gặp rắc rối.
Mọi người thường nói rằng y học cổ truyền rất lợi hại, thực tế, sự lợi hại nằm ở biện chứng. Vậy biện chứng rốt cuộc là biện cái gì? Biện là âm dương, biện là hàn nhiệt. Nói một cách đơn giản, biện là biện xem cơ thể đang ở trạng thái nào. Chỉ cần làm rõ trạng thái cơ thể, việc điều trị sẽ trở nên dễ dàng. Cũng là ho, nhưng trạng thái cơ thể có thể hoàn toàn khác nhau. Trạng thái hàn, người ta sẽ ho, trạng thái nhiệt, người ta cũng sẽ ho; vì vậy, y học cổ truyền Trung Quốc nhấn mạnh mỗi người một phương thuốc, ngay cả cùng một người, ở những thời điểm khác nhau, cũng phải dùng những phương thuốc khác nhau. Chàng trai trẻ ở trên, anh ta ho là do phổi ở trạng thái hàn, vì vậy tôi đã dùng thuốc ôn nhiệt cho anh ta; nếu phổi ở trạng thái nhiệt, chúng ta nên điều trị như thế nào?
Có một bệnh nhân cũ, là mẹ của một người bạn học của tôi. Vì người bạn học này ở xa, nên bà cụ đều tìm tôi để điều trị cơ thể, hiệu quả rất tốt, vì vậy bà ấy rất tin tưởng tôi. Hôm đó, tôi gọi điện cho bà ấy, nghe thấy giọng nói của bà ấy yếu ớt, lại thêm những tiếng ho liên hồi, tôi vội hỏi bà ấy bị làm sao. Bà ấy nói mấy ngày nay bà ấy ho liên tục, uống rất nhiều thuốc mà vẫn không kiểm soát được. Tôi liền hỏi bà ấy, ho có đờm không, bà ấy nói có; tôi lại hỏi màu sắc đờm, bà ấy nói là đờm vàng cục.
Như vậy là tôi đã hiểu. Nhưng tôi luôn rất thận trọng khi điều trị cơ thể cho người già, có những người trẻ tuổi tôi có thể kê đơn qua điện thoại, nhưng với người già thì tôi không bao giờ dám, vì vậy tôi đã đặc biệt đến nhà bà ấy, bắt mạch, xem lưỡi, mới dám kê đơn.
Tôi đoán định bà ấy bị ngoại cảm dẫn đến phế nhiệt không thanh, lúc này cần thanh nhiệt lợi phế, bèn kê đơn: kim ngân hoa, liên kiều, bồ công anh, diếp cá, lá tỳ bà, xuyên bối mẫu, hạnh nhân, tiền hồ. Phương thuốc này cơ bản đều là thuốc mát, hoàn toàn là nhắm vào chứng nhiệt. Kết quả ngày thứ ba tôi nhận được điện thoại, bà ấy nói cơn ho đã nhanh chóng được kiểm soát.
Từ hai ví dụ này mọi người có thể thấy, một chàng trai trẻ, một bà cụ, họ đều mắc chứng ho, nhưng cơ thể lại hoàn toàn ở những trạng thái khác nhau: chàng trai trẻ. Chàng trai bị hàn khí trong phổi, bà lão bị nhiệt khí trong phổi. Hãy thử nghĩ xem, nếu đổi thuốc của hai người cho nhau thì kết quả sẽ như thế nào?
Nhiều năm hành nghề y, nếu hỏi tôi cảm nhận sâu sắc nhất là gì, thì đó chính là: thầy thuốc giỏi có thể phán đoán chính xác âm dương và hàn nhiệt. Những thầy thuốc kém cỏi chỉ đóng vai phụ, đều sai lầm ở phương hướng lớn như âm dương và hàn nhiệt, nên mới trở thành thầy thuốc kém cỏi.
Thọ Khang Đường chuyên sỉ và lẻ thuốc bắc chính phẩm, thuốc bắc loại một tại Sài Gòn.
Tiệm thuốc bắc Quận 2 số 94 Vũ Tông Phan, Phường An Phú, Quận 2