Tiền Ất, tên tự là Trọng Dương, người Đông Bình, nhà Tống, sinh vào khoảng năm 1023-1104, là một thầy thuốc nhi khoa nổi tiếng. Tiền Ất có tác phẩm “Tiểu nhi dược chứng trực quyết”, là bộ sách chuyên khoa nhi đầu tiên sau “Thiên kim yếu phương, Thiếu tiểu anh nhũ phương”. Thành tựu học thuật của ông chủ yếu ở hai phương diện sau:

Biện chứng ngũ tạng

Phân chứng tạng phủ, xuất hiện sớm nhất trong các thiên “Phong luận”, “Tý luận”, “Nuy luận”, “Nhuyễn luận” của “Nội kinh”, sau đó dần được phát triển thêm từ các bộ kinh điển như “Nan kinh”, “Kim quỹ yếu lược”, “Trung tạng kinh”, “Bị cấp thiên kim yếu phương”. Tuy nhiên, những luận thuật của các nhà y học trước đây chủ yếu tập trung vào các bệnh tật của người lớn. Tiền Ất nhận thấy trẻ em có thể chất thuần dương, tạng phủ non yếu, dễ thực dễ hư, một khi mắc bệnh, các triệu chứng phản ánh ở tạng phủ rất phức tạp, do đó cần phải biện biệt tỉ mỉ. Ông nhận thức được đặc điểm thể chất này của trẻ em, dựa trên lý luận ngũ hành của “Nội kinh” kết hợp với kinh nghiệm của bản thân, đã tổng kết ra phương pháp biện chứng nhi khoa lấy “ngũ tạng” làm cương lĩnh. Hệ thống biện chứng này của Tiền Ất không chỉ giới hạn ở các bệnh nội thương tạp bệnh, mà còn được áp dụng rộng rãi cho các bệnh ngoại cảm do lục dâm. Do tính năng của ngũ tạng khác nhau, nếu bị ngoại tà xâm nhập, bệnh biến xảy ra cũng khác nhau, các triệu chứng biểu hiện tự nhiên cũng không giống nhau.

Ví dụ, “tâm” thuộc hỏa, chủ thần minh. Nếu gặp kinh hãi dị thường, tất sẽ kinh hãi từ bên trong sinh ra, nếu bị tà nhiệt quấy nhiễu, cũng có thể phát kinh, phát quý; hỏa nhiệt có thừa, tâm dương thái vượng, thường thấy thân nhiệt cao, thích uống nước; tâm là con của mộc, con có thể làm cho mẹ thực, tâm nhiệt quá thịnh, thường dẫn đến hỏa thịnh sinh phong, gây ra can phong mà nhúc nhích, phát khóc, co giật; tâm âm bất túc, tất sẽ tâm mất sở dưỡng, thần mất sở y mà quý động bất an. Vì vậy, “Tiểu nhi dược chứng trực quyết ngũ tạng bệnh” chỉ ra chủ chứng của bệnh tâm là: “hay kêu khóc, kinh quý, tay chân động dao, phát nhiệt, uống nước”. Lại biện biệt hư thực của bệnh tâm nói: “Tâm chủ kinh, thực thì kêu khóc phát nhiệt, uống nước mà lay động (hoặc co giật), hư thì nằm mà quý động bất an”. (“Tiểu nhi dược chứng trực quyết ngũ tạng sở chủ”).

“Can” thuộc mộc, chủ cân, thanh âm của nó là hô, mắt là khiếu của can. Can dương có thừa, thì nhìn thẳng, kêu la, can âm bị tổn thương, cân mất hàm dưỡng, thì xuất hiện các triệu chứng như cổ gáy cứng gấp; can khí uất kết, muốn được thư triển điều đạt, thì ngáp vặt liên tục, uất nặng thì đột ngột ngã xuống hôn mê, bất tỉnh nhân sự; nếu can âm bất túc dẫn đến can dương thiên thắng, cũng có thể biến sinh hư phong, xuất hiện các trạng thái như nghiến răng, giống như có dư; dương lưu ở trên, âm tích ở dưới, âm dương mất giao, trên dưới dẫn nhau thì thành thiếu khí (tham khảo “Linh khu – Khẩu vấn”); can nhiệt thì phong động ở ngoài, như co giật phát run, v.v.; thấp thì phong sinh ở trong, như tràng phong đại tiện ra máu, v.v.

“Tỳ” thuộc Thổ, giúp Vị vận chuyển tân dịch, chủ về tứ chi và cơ nhục. Nếu Tỳ thấp có dư, mất chức năng vận hóa, tứ chi không được nuôi dưỡng bởi Vị khí, dẫn đến mệt mỏi, thân thể nặng nề, buồn ngủ. Nếu bị tà nhiệt hun đốt, toàn thân sẽ phát sốt, miệng khát muốn uống nước. Nếu Tỳ Thổ bất túc, thanh khí hạ hãm, sẽ gây tiêu chảy. Nếu bị Can tà xâm phạm, thường dẫn đến chứng kinh phong mãn tính. Vì vậy, sách “Tiểu Nhi Dược Chứng Trực Quyết, Ngũ Tạng Bệnh” chỉ ra rằng chủ chứng của bệnh Tỳ là “buồn ngủ, tiêu chảy, không muốn ăn uống”. Sách cũng phân biệt hư thực của bệnh Tỳ như sau: “Tỳ chủ về buồn ngủ, thực thì buồn ngủ, thân nhiệt cao, uống nước nhiều, hư thì nôn mửa sinh phong”. (Tiểu Nhi Dược Chứng Trực Quyết, Ngũ Tạng Sở Chủ)

“Phế” thuộc Kim, chủ về khí. Nếu Phế khí có dư, sẽ gây hen suyễn, đầy tức, khó chịu. Nếu Phế có nhiệt, miệng khát muốn uống nước. Nếu Phế nhiệt không nặng hoặc có đình ẩm, không muốn uống nước. Nếu Phế khí bất túc, hô hấp khó khăn, thậm chí thở ra nhiều hơn hít vào. Vì vậy, sách “Tiểu Nhi Dược Chứng Trực Quyết, Ngũ Tạng Bệnh” chỉ ra rằng chủ chứng của bệnh Phế là “khó chịu, nghẹn khí, thở dài, thở ngắn, hen suyễn”. Sách cũng phân biệt hư thực của bệnh Phế như sau: “Phế chủ về hen suyễn, thực thì đầy tức, hen suyễn gấp gáp, có người uống nước, có người không uống nước, hư thì nghẹn khí, thở dài”. (Tiểu Nhi Dược Chứng Trực Quyết, Ngũ Tạng Sở Chủ)

Thận” thuộc Thủy, chủ về tàng tinh, là nơi chứa chân âm, chân dương của cơ thể. Trẻ em dương khí chưa thịnh, âm cũng chưa đầy đủ, vì vậy bệnh Thận thực chứng rất ít. Nếu Thận hư, tinh không thể đưa lên mắt, mắt sẽ không có thần quang, sợ ánh sáng. Nếu tinh không thấm nhuần vào xương, xương khớp sẽ nặng nề. Tiền Thị cho rằng, chỉ có chứng sang chẩn đen sạm là thuộc Thận thực, vì sang chẩn đen sạm là do Thận âm khô kiệt, mà Thận âm khô kiệt là do hỏa nhiệt quá thịnh. Vì vậy, sách “Tiểu Nhi Dược Chứng Trực Quyết, Ngũ Tạng Bệnh” chỉ ra rằng chủ chứng của bệnh Thận là “không có thần quang, sợ ánh sáng, thân thể và xương khớp nặng nề”. Sách cũng phân biệt hư thực của bệnh Thận như sau: “Thận chủ về hư, không có thực, chỉ có sang chẩn, Thận thực thì biến thành đen sạm”. (Tiểu Nhi Dược Chứng Trực Quyết, Ngũ Tạng Sở Chủ) Điều này đều nói rằng bệnh Thận hư nhiều thực ít.

Hệ thống biện chứng Ngũ Tạng của Tiền Thị tuy có nguồn gốc từ các sách “Nội Kinh”, “Nan Kinh”, “Kim Quỹ Yếu Lược”… nhưng từ những chủ chứng Ngũ Tạng mà ông lựa chọn, có thể thấy nội dung đã khác biệt rất nhiều so với các sách trên. Sự khác biệt này chính là sự phát triển lý luận của người xưa dựa trên đặc điểm của trẻ em. Hệ thống học thuật của Tiền Thị lấy Ngũ Tạng làm cương lĩnh, do đó khi lâm sàng, ông cũng khái quát từ việc phân chứng Ngũ Tạng. Ví dụ, khi ông luận về các chứng ở mặt, ông nói: “Má trái là Can, má phải là Phế, trán là Tâm, mũi là Tỳ, cằm là Thận; đỏ là nhiệt, tùy chứng mà trị”. Ông cũng luận về các chứng trong mắt như sau: “Đỏ là Tâm nhiệt, dùng Đạo Xích Tán làm chủ; đỏ nhạt là Tâm hư nhiệt, dùng Sinh Tê Tán làm chủ; xanh là Can nhiệt, dùng Tả Thanh Hoàn làm chủ, nhạt là bổ; vàng là Tỳ nhiệt, dùng Tả Hoàng Tán làm chủ; không có thần quang là Thận hư, dùng Địa Hoàng Hoàn làm chủ”. Đây đều là phương pháp quan sát sắc mặt để chẩn đoán bệnh nhiệt của Ngũ Tạng. Phương pháp trước cơ bản sử dụng lý luận của “Tố Vấn, Thích Nhiệt”, phương pháp sau phát triển và bổ sung cho “Linh Khu, Ngũ Duyệt Ngũ Sứ” về “Can bệnh thì khóe mắt xanh; …”

“Bệnh ở tỳ thì môi vàng; bệnh ở tâm thì lưỡi rụt ngắn, gò má đỏ; bệnh ở thận thì gò má và mặt đen” là những lý thuyết được đưa ra. Ví dụ, khi Tiền thị luận về các chứng cam, mặc dù ông nói rõ rằng tất cả đều do tổn thương tân dịch và tỳ vị hư nhược gây ra, nhưng ông lại chia thành bảy loại khác nhau dựa trên các hình chứng khác nhau: tâm, can, tỳ, phế, thận, cân và cốt. Ngoài ra, khi luận về sang chẩn, ông cho rằng mỗi tạng đều có một chứng: can là thủy bào, phế là nùng bào, tâm là ban, tỳ là chẩn, quy thận thì đều biến đen và khó chữa. Tất cả những điều này đều là những ví dụ cụ thể về việc vận dụng hệ thống biện chứng ngũ tạng.

Ở đây cần phải nói rõ, mặc dù Tiền thị rất nhấn mạnh việc phân chứng ngũ tạng, nhưng điều đó không có nghĩa là ông chia cắt mối quan hệ giữa các tạng. Ngược lại, ông rất coi trọng sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa các tạng. Ví dụ, bệnh can phát vào mùa thu, ông cho rằng đó là do can cường phản vũ phế, nên phép trị là bổ phế tả can; bệnh phế phát vào mùa xuân, là do phế cường thừa can, nên phép trị là tả phế; bệnh tâm thấy vào mùa đông, là do tâm cường phản vũ thận, phép trị là bổ thận trị tâm; bệnh thận thấy vào mùa hạ, là do thận tà lăng tâm, phép trị là trị thận. (Tham khảo “Tiểu nhi dược chứng trực quyết – Ngũ tạng tương thắng khinh trọng”). Phương pháp chẩn trị này của Tiền Ất không chỉ cho thấy ông đã nhìn nhận rõ ràng rằng ngũ tạng là một chỉnh thể có mối liên hệ mật thiết với nhau, mà còn phản ánh rằng ông rất chú ý đến ảnh hưởng của tứ thời ngũ hành đối với cơ thể con người. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng nguyên tắc chẩn trị ngũ tạng tương thắng của Tiền thị tuy có tính đúng đắn nhất định, nhưng cũng có tính phiến diện nhất định, vì ông chỉ nói đến bệnh biến do tạng khí dư thừa gây ra, mà không đề cập đến bệnh tật do bất túc gây ra. Do đó, khi vận dụng phương pháp này, cần phải kết hợp toàn diện với mạch chứng để chẩn đoán mới có thể đưa ra kết luận chính xác.

Similar Posts