Lưu Hoàn Tố, tự Thủ Chân, sinh năm Đại Quan thứ tư đời Tống (1110), người Hà Gian phủ (nay là huyện Hà Gian tỉnh Hà Bắc), người đời sau gọi ông là “Lưu Hà Gian”. Ông đối với lý luận của “Nội Kinh” có nhiều nghiên cứu, đặc biệt là đối với học thuyết “Ngũ vận lục khí”, do đó phần lớn tư tưởng học thuật của ông đều từ “Nội Kinh” mà phát triển ra.
Nhận thức và vận dụng học thuyết Ngũ vận lục khí (五運六氣學說的認識和運用)
Học thuyết Ngũ vận lục khí, là sự nhận thức của người xưa về quy luật biến hóa của khí hậu tự nhiên. Con người tồn tại trong giới tự nhiên, thì đều chịu ảnh hưởng của sự biến hóa của tự nhiên, từ việc nhận thức sự biến hóa của khí hậu tự nhiên, tiến tới nghiên cứu sự phát sinh và phát triển của bệnh tật, đây là đạo lý cơ bản mà “Nội Kinh” rất coi trọng học thuyết vận khí. Lưu Hoàn Tố đối với nghiên cứu học thuyết vận khí của “Nội Kinh” chủ yếu có hai điểm dưới đây.
- Nhận thức về Ngũ vận lục khí
Lưu Hoàn Tố đối với sự lý giải về “Vận khí”, là dưới sự chỉ đạo của tư tưởng truyền thống “Nhân dữ thiên địa tương ứng” (Con người và trời đất tương ứng)
để nhận thức. Ông cho rằng, sự biến hóa của khí hậu có ảnh hưởng cực kỳ mật thiết đến sự phát sinh và phát triển của bệnh tật ở người, do đó nghiên cứu y học thì phải nghiên cứu học thuyết vận khí, cũng là nghiên cứu y học có thể thoát ly điều kiện tự nhiên hay không, cho nên ông nói: “Không biết cầu y mà chỉ cầu thuốc thì thật là sai lầm.”
Lưu Hoàn Tố coi trọng học thuyết vận khí, là vì để giải quyết vấn đề về y học, đạt được mục đích học để ứng dụng, chứ không phải là đơn thuần vì nghiên cứu mà nghiên cứu. Ông phản đối phương pháp nghiên cứu thoát ly thực tế khách quan, mà phê phán tình hình thực tế lúc bấy giờ Lưu Hoàn Tố đã kết hợp một cách hữu cơ với tình hình thực tế mà đưa ra phương pháp nghiên cứu “Vận khí mà năm nào cũng có bệnh”. Ông cho rằng, nghiên cứu của ông, là “Lấy chí của Thánh nhân mà làm rõ những điều chưa được nói đến”. Một mặt, Lưu Hoàn Tố thừa nhận quy luật phân bố khí hậu bốn mùa của vận khí, mặt khác lại chỉ ra sự biến hóa của vận khí cũng có sự biến đổi. Ông chỉ ra quy luật bốn mùa của lục khí là: Khí hậu mùa xuân phân ra, mộc khí đương lệnh mà nhiều gió; khí hậu mùa hè phân ra tiểu mãn đến hạ chí là quân hỏa, khí hậu ấm áp; khí hậu từ đại thử đến cuối hạ là tướng hỏa, khí hậu ẩm thấp mà nhiều mưa; khí hậu từ thu phân đến tiểu tuyết là kim, khí hậu mát mẻ mà khô ráo; khí hậu từ tiểu tuyết đến đại hàn là thuộc thủy, khí hậu giá lạnh. Phân tích này, nói rõ khí hậu của bốn mùa là tùy theo sự biến thiên của lục khí mà thay đổi, con người về sinh lý, bệnh lý, đều có thể chịu ảnh hưởng của sự biến đổi khí hậu này. Nhưng ở một số trường hợp đặc biệt, do sự dị thường của khí hậu, cũng có thể xuất hiện một số bệnh không theo mùa. Ông nói: “Ngũ vận lục khí biến hóa khôn lường, xung đột tương bác không thôi, thì an ổn mà không có bệnh tật.” (“Tố vấn huyền cơ nguyên bệnh thức – Ngũ vận lục khí bệnh”) Lại có thể thấy Lưu Hoàn Tố là dùng ngũ vận lục khí để nhận biết và nghiên cứu bệnh tật, chứ không phải là máy móc dùng lục khí để cố định dự đoán bệnh tật. Cho nên ông nói: “Xem bệnh tật, nên lấy dương minh thực nhiệt làm gốc, biết phép tắc của bệnh, lấy khí của nó quy về ngũ vận lục khí, thì có thể thấy rõ.”
- Sự liên hệ của Ngũ vận lục khí trong sinh lý bệnh lý
Lưu Hoàn Tố cho rằng “Một thân chi khí”, cùng với khí hậu bốn mùa của trời đất tương ứng, mà không sai lệch, ông đem sự vận dụng của ngũ vận lục khí vào thực tiễn lâm sàng, chỉ ra sự tương ứng giữa con người và thiên nhiên. Tức là trong tình hình bình thường: Mộc chủ mùa xuân, lục khí là phong (gió), ở người là can; hỏa chủ mùa hè, lục khí là nhiệt, ở người là tâm; thổ chủ cuối hạ, lục khí là thấp, ở người là tỳ; kim chủ mùa thu, lục khí là táo (khô), ở người là phế; thủy chủ mùa đông, lục khí là hàn, ở người là thận. Nếu như quy luật biến hóa dị thường: Mộc vốn ôn, tâm vốn nhiệt, phế vốn thanh, can vốn ôn, thận vốn thanh; tỳ vốn táo, phế vốn táo, can vốn thanh, tâm vốn nhiệt, thận vốn hàn. Đây là mối liên hệ giữa ngũ vận lục khí và ngũ tạng, từ đó mà quan sát chứng trạng hư thực hàn nhiệt, để nhận biết bản chất của bệnh tật, mà không phiến diện cho rằng đó là thực nhiệt, thuộc về hàn. “
trong đời không phân biệt hư thực của ngũ vận lục khí, mà một mực cho rằng thực thì là hàn, cho đến khi biết được tâm hỏa là một khí hư, mà không phải là thực khí của tạng phủ cũng. (“Nội kinh trích yếu – Lưu Hà Gian tiên sinh tam tiêu luận”) đem hư thực của lục khí và hư thực của tạng phủ liên hệ với nhau, để giải thích bệnh tật xuất hiện ở lâm sàng, đây là có giá trị thực dụng nhất định.
Lục khí và tạng khí, đều có mối quan hệ tương sinh tương khắc và tương y tương tồn, do đó khi lâm sàng chứng bệnh, phải theo quy luật tương sinh tương khắc của truyền thống để giải thích bệnh tật. Ví như thổ không thắng thủy, thì hỏa sẽ khắc kim, sẽ phát sinh bệnh tật, như đau đầu, chóng mặt, bụng trướng, tiêu chảy; hỏa không thắng kim, thì mộc sẽ khắc thổ, sẽ phát sinh bệnh tật, như ho suyễn, khí nghịch chi loại; kim không thắng mộc, thì thổ sẽ khắc thủy, sẽ phát sinh bệnh tật, như vàng da, phù thũng chi loại; thủy không thắng hỏa, thì kim sẽ khắc mộc, sẽ phát sinh bệnh tật, như ho suyễn, suyễn tức chi loại; mộc không thắng thổ, thì thủy sẽ khắc hỏa, sẽ phát sinh bệnh tật, như rét run, sợ lạnh chi loại. Cho nên Lưu Hoàn Tố nói: “Toàn bị ngũ hành, thì sinh sôi; thiên thắng thì bệnh; tương khắc thì hình; hỗ tương thì bình; là hưng thịnh; biến đổi thì loạn; tai hại thì sinh.” (“Tố vấn huyền cơ nguyên bệnh thức – Hỏa loại”)
Ngoài ra, Lưu Hoàn Tố còn vận dụng phương pháp “Tỷ loại lập tượng” (So sánh loại hình để lập nên hình tượng), đem các loại bệnh nhân đến khám bệnh phân biệt quy về ngũ vận lục khí, đặt tên là “Nguyên bệnh thức”. Ông lại nói: “Lấy tỷ loại lập tượng, tường xét trời đất tự nhiên chi lý……” Lại nói, những lời này tuy là giả thuyết, nhưng lấy đó mà suy ra, nhận biết được khí hậu lục khí âm dương thịnh suy, đều hợp với lẽ trời.” Lưu Hoàn Tố cho rằng, sự biến hóa của bệnh tật tuy phức tạp đa dạng, nhưng cơ chế bệnh của nó, cũng có thể dùng ngũ vận lục khí để khái quát. Vì thế ông đem các chứng bệnh trong “Bệnh cơ” quy nạp thành “Ngũ vận chủ bệnh”: Như phong mà động dao, thuộc can mộc; thống tý đau ngứa, thuộc tâm hỏa; thấp mà đầy trướng, thuộc tỳ thổ; khí nghịch ho suyễn, thuộc phế kim; rét run sợ lạnh, thuộc thận thủy. Các bệnh khác, đều quy về phong, nhiệt, thấp, hỏa, táo, hàn, lại tăng thêm “Thấp nhiệt thuộc táo” một loại, mà tạo thành “Lục khí vi bệnh” một loại. Hệ thống này tuy dùng ngũ vận lục khí làm cương lĩnh phân loại các loại bệnh, thắng ở chỗ tư duy logic chặt chẽ, hơn nữa tính hệ thống cũng tương đối mạnh, không làm cho người ta khi lâm sàng chứng bệnh cảm thấy khó nắm bắt, đồng thời, từ gợi ý của bệnh cơ, đối với chẩn đoán trị liệu cũng có sự gợi mở rất lớn. Đương nhiên, phương pháp phân loại này, từ góc độ toàn diện mà nói là chưa đủ, cũng không thể khái quát hết mọi bệnh tật; nhưng chỉ cần phân tích cơ chế bệnh rõ ràng, liên hệ với ngũ vận lục khí, ngũ tạng lục phủ, mười hai kinh lạc chi biến, phân ra một mười cương lĩnh, có thể nói là đã nắm được điểm chính yếu.
Sự xiển dương đối với cơ chế bệnh lý (病機理論的闡發 – Bệnh cơ lý luận đích xiển phát)
Lưu Hoàn Tố tại thế, đúng vào thời kỳ “Hòa tễ cục phương” thịnh hành, thầy thuốc đương thời, thường dùng các vị thuốc cay nóng ôn bổ
đã hình thành một loại phong khí. Ảnh hưởng của nó, khiến cho người bệnh dễ dàng dựa vào triệu chứng để tìm thuốc, thầy thuốc xem nhẹ việc thi trị biện chứng, việc phân tích cơ chế bệnh của bệnh tật càng không được xem trọng. Vì vậy, Lưu Hoàn Tố đối với cơ chế bệnh đã làm rõ một cách tinh tế, chỉ ra tác hại của việc lạm dụng thuốc cay nóng, đề xướng chính lại những sai lầm của đương thời. Ông lại theo “Nội kinh” mà chỉ ra, lục khí bệnh đến mức thái quá thì sẽ xuất hiện hiện tượng trái ngược, ông đem loại hiện tượng trái ngược này gọi là “Thắng chi dĩ hóa” (Thắng mà hóa), dùng quy luật này để giám biệt các cơ sở lý luận của bệnh trạng giả thực hư thực. Đây đều là những luận điểm học thuật chủ yếu của Lưu Hoàn Tố trong y học.
- Chủ trương hỏa tà (主火論 – Chủ hỏa luận)
“Hỏa nhiệt” là nguyên nhân gây ra nhiều loại bệnh tật, là một trong những nội dung chủ yếu mà Lưu Hoàn Tố xiển dương cơ chế bệnh. Do đó, có người gọi ông là “Chủ hỏa phái” hoặc “Hàn lương phái”. Luận điểm “Chủ hỏa” của ông phản ánh ở hai phương diện dưới đây.
Thứ nhất, mở rộng hai loại bệnh cơ hỏa nhiệt trong hơn mười chín loại bệnh cơ của “Nội Kinh”, như Bảng 1 đã trình bày.
Bảng 1: So sánh phân tích cơ chế bệnh của Lưu Hoàn Tố và “Nội Kinh”
Lục khí | Bệnh cơ trong “Nội Kinh” | Bệnh cơ của Lưu Hoàn Tố | So sánh |
“Nội Kinh” \ | |||
Phong | Bệnh phong xin hãy xem các chứng. | Mạnh, đau, co giật, run rẩy, chóng mặt, co rút, cơ bắp co cứng. | 1 \ |
Nhiệt | Bệnh nhiệt có các chứng như nôn mửa, bụng trướng, bệnh có tiếng, như tiếng trống, lại xin hãy xem các chứng như tiêu chảy, nước tiểu đục, lại xin hãy xem các chứng như đau bụng, ợ chua, buồn nôn, lại xin hãy xem các chứng như đại tiện không thông, lại xin hãy xem các chứng như nôn mửa. | Sưng, ngứa, lở loét, đau, co rút, tiêu chảy xuống dưới, chuyển gân, co rút, tiêu chảy, tiểu tiện không thông, chảy máu, đau bụng, nôn mửa, trướng bụng, bụng có tiếng như tiếng trống, trướng, phù, co giật, buồn bực, co rút, chảy máu, nôn mửa, ợ chua, buồn nôn, cơ thể nóng, sợ lạnh chiến run, miệng cười khẩy, co giật, run rẩy, chảy máu. | 8 \ |
Thấp | Bệnh thấp xin hãy xem các chứng. | Nặng nề, tiểu tiện không thông, ăn vào giảm, đại tiện lỏng, chân tay không ấm, không thể đi lại. | 1 \ |
Hỏa | Bệnh hỏa xin hãy xem các chứng như sốt rét, lại xin hãy xem các chứng như thần chí hôn mê, lại xin hãy xem các chứng như co giật, lại xin hãy xem các chứng như ngược lên trên, lại xin hãy xem các chứng như đau bụng, ợ chua, buồn nôn. | Sốt rét, hôn mê, co giật, run rẩy, điên cuồng, nói sàm, mắt trợn ngược, tai điếc, mắt không nhìn thấy, ăn không vào, nói năng khó khăn, đột nhiên chết, tiêu chảy, đau bụng, ợ chua, buồn nôn, đột nhiên chết. | 7 \ |
Táo | Ho khan đờm dính, tay chân run rẩy. | 2 \ |
(Tiếp theo bảng từ trang trước)
Lục khí | Bệnh cơ trong “Nội Kinh” | Bệnh cơ của Lưu Hoàn Tố | So sánh |
“Nội Kinh” \ | |||
Hàn | Bệnh hàn xin hãy xem các chứng như tiêu chảy nước trong, đại tiện không thông, lại xin hãy xem các chứng như lạnh, đau bụng, tiêu chảy. | Xin hãy xem các chứng như trên dưới đều ra nước trong, đau bụng, tiêu chảy, ăn không vào, nôn ra dịch trong, tay chân co quắp, đại tiện không thông, bí tiểu. | 4 \ |
Thọ Khang Đường chuyên sỉ và lẻ thuốc bắc chính phẩm, thuốc bắc loại một tại Sài Gòn.
Tiệm thuốc bắc Quận 2 số 94 Vũ Tông Phan, Phường An Phú, Quận 2