Thăng ma vị ngọt đắng, tính hơi hàn, công năng thăng dương giải độc. Bốn mùa chuyển biến, khí xuân hạ ấm áp bốc lên, vạn vật sinh sôi; khí thu đông lạnh lẽo giáng xuống, vạn vật tiêu điều. Con người là tiểu vũ trụ, thăng giáng xuất nhập, không cơ quan nào là không có, khí của con người quý ở sự thuận. Nếu khí đạo không thông, thăng giáng mất đi sự điều hòa, thì bệnh tật phát sinh. Trương Nguyên Tố nói thăng ma “nếu bổ tỳ vị, không có vị thuốc này dẫn dắt thì không thể bổ được” (《Y học Khởi nguyên – Dược loại pháp tượng》), và cho rằng công dụng của thăng ma có bốn điều “Dẫn kinh thủ túc dương minh, là một; thăng dương ở dưới chí âm, là hai; trị đau đầu vùng dương minh kinh, là ba; khử phong tà ở da và vùng cao nhất của cơ thể, là bốn” (《Y học Khởi nguyên – Dược loại pháp tượng》). Các nhà y học đời sau, phần lớn tuân theo pháp này và theo đó mà nói. Nhan lão trên lâm sàng nghiệm chứng, cho rằng thuyết này quả là kinh nghiệm thực tế, đồng thời khai thác công dụng thăng dương giải độc của nó để trị nhiều bệnh chứng nan y có hiệu quả.

I [Dùng Thăng Ma tâm đắc]

1. Dùng liều nhỏ giỏi thăng dương: Thăng ma lấy chữ “thăng” làm tên, dùng liều nhỏ, công thiện thăng dương. Thăng giáng là hình thức vận động cơ bản của khí cơ, khí của trời đất có thăng giáng, khí của thân người cũng có thăng giáng, thăng giáng ngừng thì khí cơ lâm vào nguy hiểm. Vì vậy công dụng của thăng ma rất lớn, dùng cho các chứng trung khí hạ hãm, thanh dương bất thăng rất có hiệu quả.

2. Dùng liều trung và lớn có công năng giải độc: Thăng ma vị đắng kiêm ngọt, tính hàn lương, trung đại liều lượng thì có thể thanh nhiệt giải độc. Nhan lão trên lâm sàng vô cùng coi trọng việc bào chế gia công thăng ma, cho rằng thăng ma sống dùng sở trường lương huyết giải độc, sao dùng sở trường thăng đề thanh dương chi khí, bào chế khác nhau thì tác dụng cũng khác nhau.

II. Tùy chứng phối ngũ:

(1) Bệnh tỳ vị: Tỳ nên thăng thì kiện, vị nên giáng thì hòa, tỳ vị cùng ở trung châu, là then chốt của khí cơ thăng giáng. Tỳ khí thăng lên mà vị khí giáng xuống, thì hành chức năng sinh hóa. Nếu tỳ vị mất hòa, thì thanh khí không được tuyên thăng sinh phát, trọc khí không được hòa giáng mà đình trệ, nôn mửa, bụng trướng, tiêu chảy. Lý Đông Viên sáng lập bổ thổ học phái, phát minh các phương như Thăng dương Ích Vị Thang, Thanh Thử Ích Khí Thang, chủ trương thuyết “thăng thanh giáng trọc”. Nhan lão đối với thuyết này rất mực tán thưởng và phát huy thêm, lâm sàng thường dùng thăng ma, thương truật phối hợp, điều lý khí cơ tỳ vị, lấy thăng ma tính nhẹ thanh, để thăng tỳ khí, phụ thêm thương truật vị đắng táo thấp, để giáng vị khí, một thăng một giáng, thăng thanh tiết trọc, điều trị các chứng ợ hơi buồn nôn, đầy tức vùng thượng vị, can vị bất hòa… rất hiệu nghiệm.

Về chứng thấp nhiệt trung trở: Nếu người bệnh bị thấp nhiệt ngăn trở ở trung tiêu, thì có thể phối hợp Thăng ma với các bài thuốc như Tả Kim hoàn, Ôn Đảm thang..

2/ Hoa mắt chóng mặt: Huyết khó đi lên trên, thì các chứng bệnh như đau đầu thường xuyên xảy ra, thường là do thanh dương khí không thăng lên được. Nhan lão trên lâm sàng thường quen dùng phép “thăng dương ích khí” để điều trị, lấy Thăng ma, Hoàng kỳ phối hợp. “《Dược Giám – Tân Khắc Dược Giám》 quyển chi nhị vị thăng ma “cái dương khí hạ hãm giả, khả thăng đề chi, nhược nguyên khí bất túc giả, thăng chi tắc hạ ích hư, nhi nguyên khí ích bất túc hĩ”” (《Dược Giám – Tân Khắc Dược Giám》 quyển thứ hai nói rằng Thăng ma “có thể nâng lên khí dương bị hạ hãm, nhưng nếu nguyên khí không đủ, thì việc nâng lên sẽ làm cho phần dưới càng hư, và nguyên khí càng thiếu hụt”). Thăng ma khí vị đều mỏng, nhẹ nhàng thanh khiết đi lên, rất có khả năng dẫn thanh dương đi lên vùng đầu, phối hợp với Hoàng kỳ để bổ ích nguyên khí, thì công dụng nổi bật là thăng dương ích khí, thăng dương mà không làm tổn thương khí, ích khí mà không gây ứ trệ. Nhan lão trên lâm sàng thường lấy các bài thuốc như Ích Khí Thông Minh thang, Bổ Trung Ích Khí thang, Thanh Thử Ích Khí thang để gia giảm, và thêm vào các vị thuốc hoạt huyết hóa ứ như Xuyên Khung, Hồng Hoa, Cát Căn, Đan Sâm, v.v., khí huyết song trị, thì hiệu quả càng tốt hơn. Đồng thời, dùng bài Thanh Chấn thang, Trạch Tả thang hợp lại để điều trị chứng huyễn vựng do đàm thấp nội uẩn, thăng giáng thất tư, thanh dương bị che lấp, đạt được hiệu quả đáng kể.

(3) Các chứng huyết có huyết tượng thiên thấp: Các bệnh như bạch cầu, suy tủy, xuất huyết giảm tiểu cầu giai đoạn cấp phát đều có thể xuất hiện huyết tượng giảm thấp. Nếu kèm theo sốt cao, thì thêm Thăng ma vào các thuốc thanh nhiệt lương huyết, vừa có hiệu quả thanh nhiệt, lại có công dụng nâng cao huyết tượng; dùng để điều trị chứng giảm bạch cầu hạt do hóa trị hoặc xạ trị, phối hợp với Tây Dương Sâm, Kê Huyết Đằng, Hổ Trượng thì càng tốt. Nhan lão cho rằng Thăng ma vừa đi vào khí phận, cũng đi vào huyết phận, có công năng lương huyết hóa ứ, là thuốc tốt để tiêu ban trị chẩn, như “《Bản Thảo Cương Mục – Thảo Bộ》 quyển thứ mười ba nói Thăng ma “tiêu ban chẩn, hành ứ huyết”). Ban chẩn mọc ở ngực bụng, hoặc phát ở tứ chi, không nổi cao trên da, biểu hiện rất giống với tử ban của bệnh máu.

《Ôn Dịch Luận》 quyển thượng 《Phát Ban》 nói: “tà khí lưu lại ở huyết phận, khí bên trong bị bế tắc, thì bị phục ở bên trong không thể thoát ra ngoài mà thành ban”). Điều này cho thấy sự hình thành ban có liên quan đến huyết nhiệt, huyết ứ, Thăng ma trị chứng này là hợp nhất, nếu dùng chung với Hổ Trượng có tác dụng thanh nhiệt hoạt huyết, lương huyết để tiêu ban, khử ứ để sinh tân, dùng để trị ban xuất huyết giảm tiểu cầu, thường có hiệu quả. Nhan lão trên lâm sàng còn thường dùng chung với bài Đào Hồng Tứ Vật Thang, có công dụng tương hỗ lẫn nhau, lấy phương pháp này điều trị suy tủy, giảm bạch cầu, giảm tiểu cầu, v.v. cũng có hiệu quả khá tốt.

(4) Viêm loét miệng: Thăng ma tính mát, kinh quy dương minh, giỏi thanh vị nhiệt, chủ trị viêm loét miệng. Nhan lão trên lâm sàng thường dùng Thăng ma sống thay cho Tê giác để dùng, trị rộng rãi các chứng nhiệt độc, rất có hiệu quả, có thể dùng Thăng ma phối hợp với Thạch cao, chuyên nhập dương minh, thanh vị giải độc, chủ trị viêm loét miệng tái phát liên tục, miệng khô miệng hôi, đại tiện táo kết, rêu lưỡi vàng nhớt, v.v. thuộc chứng vị nhiệt nội uẩn. Thực hỏa thì thường phối hợp với Ngọc Nữ Tiễn; hư hỏa thì thêm vào bài Dưỡng Vị Thang, biện chứng mà dùng, công hiệu càng nhanh hơn. Các chứng thời tà cao nhiệt như viêm miệng lở loét, nhiễm nấm, viêm tai giữa cấp tính, đan độc, viêm tuyến mang tai, nhiễm trùng huyết, sởi đậu phát ban, hồ hoặc, v.v. cũng có thể dùng Thăng ma làm chủ đạo dẫn dắt các thuốc thanh nhiệt giải độc, có công hiệu đặc biệt.

III. Cách dùng và liều lượng:

Sắc nước uống, 3~9g. Thăng đề dương khí thì thường sao lên để dùng, lương huyết giải độc thì thường dùng sống.

Thọ Khang Đường chuyên sỉ và lẻ thuốc bắc chính phẩm, thuốc bắc loại một tại Sài Gòn.

Tiệm thuốc bắc Quận 2 số 94 Vũ Tông Phan, Phường An Phú, Quận 2

https://www.facebook.com/thokhangyquan

https://www.youtube.com/@thokhangduong

Similar Posts